Thursday 2 April 2015

Quyết định không điều chỉnh tỷ giá: những điều bất hợp lý (Bài đăng trên TBKTSG, 2/4/2015, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/128431/Quyet-dinh-khong-dieu-chinh-ty-gia-nhung-dieu-bat-hop-ly.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hôm 25/3 đã tuyên bố không điều chỉnh tỷ giá VND tại thời điểm này. Lý do vì:
 
(1) việc tăng tỷ giá thời gian qua chủ yếu do yếu tố tâm lý, các yếu tố về kinh tế về cơ bản không có biến động lớn và đáng quan ngại;
 
(2) đồng USD chỉ tăng mạnh so với một số đồng tiền chủ chốt như EUR, bảng Anh, đô la Canada, còn so với các đồng tiền trong khu vực như Nhân dân tệ, đô la Hồng Kông, Won (Hàn Quốc)… tăng không đáng kể. Tỷ trọng thương mại Việt Nam với các nước mà đồng tiền mất giá mạnh khá nhỏ, trong khi các nước có tỷ trọng thương mại lớn thì đồng tiền mất giá không nhiều (ít ảnh hưởng đến xuất khẩu);
 
(3) cần thấy rằng để tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu hiện nay yếu tố chính không phải là tỷ giá, mà cần phải nâng cao chất lượng, mẫu mã, giá trị sử dụng, độ thỏa mãn người tiêu dùng;
 
(4) điều chỉnh tăng tỷ giá có thể cải thiện xuất khẩu nhưng mức độ không lớn, trong khi còn phải cân nhắc tác động tới nhập khẩu, nhất là khi nhập khẩu đang tăng trở lại; điều chỉnh tăng tỷ giá sẽ khiến chi phí sản xuất tính bằng đồng Việt Nam tăng lên do sản xuất trong nước đang phụ thuộc nhiều vào hàng nguyên vật liệu nước nước ngoài nhập khẩu;
 
(5) diễn biến thế giới thời gian qua, các nước chủ yếu thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, chủ yếu thông qua giảm lãi suất hay mở rộng các gói nới lỏng định lượng, thông qua đó hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Còn ở Việt Nam, NHNN thời gian qua cũng đã và đang điều hành theo hướng đưa tiền ra khá nhiều, chủ yếu qua kênh mua ngoại tệ, giảm mặt bằng lãi suất;
 
(6) VND mất giá qua các năm, ngay cả khi USD liên tục giảm giá. Do đó, không nên quá lo ngại về việc VND lên giá tương đối với các đồng tiền sẽ ảnh hưởng đến cạnh tranh xuất khẩu; và
 
(7) phá giá làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài của Việt Nam.  

Phân tích từng điểm ở trên (theo thứ tự), có thể chỉ ra những cái sai sau đây trong lập luận trên của NHNN.

(1) Chính những lý do này luôn được NHNN đem ra sử dụng để trấn an dư luận trong các đợt “sốt” tỷ giá lần trước nhưng rồi rốt cuộc NHNN sau đó vẫn phải điều chỉnh tỷ giá. Như thế chứng tỏ những lý do cũ mòn này không có cơ sở, hoặc nêu ra cũng không có tác dụng gì.

(2) Không rõ NHNN lấy những mốc thời gian nào để nói rằng USD lên giá (tỷ giá tăng) “không đáng kể” so với các đồng tiền trong khu vực (và là những đồng tiền nào). Lấy số liệu tỷ giá từ Bloomberg trong 1 năm qua tính đến hiện tại (27/3/2015) để tính tỷ giá trung bình cho 2 kỳ (mỗi kỳ 6 tháng): kỳ 1 từ 27/3/2014 đến 30/9/2014, và kỳ 2 từ 1/10/2014 đến 27/3/2015, được kết quả như bảng dưới đây:

Căn cứ vào mức độ điều chỉnh tỷ giá mỗi lần không quá 1 điểm phần trăm của NHNN, ta gọi một đồng bản tệ nào đó trong số nêu ở bảng trên là đã biến động “đáng kể” so với USD nếu tỷ giá tăng/giảm trên 1 điểm phần trăm. Dựa trên mốc này, có thể thấy từ bảng trên rằng VND đã tăng giá “đáng kể” so với phần lớn các đồng tiền trong khu vực, ngoại trừ CNY và HKD, là 2 đồng tiền có mức độ biến động “không đáng kể” so với USD. Nhưng riêng với HKD thì không cần xét đến vì chính sách tiền tệ của nước này là neo chặt HKD vào USD, nên sự biến động không đáng kể của nó là hiển nhiên. Nói cách khác, phát ngôn của NHNN như trên là không chính xác.




Ngoài ra, NHNN (và nhiều chuyên gia, tổ chức khác) đã bỏ qua/sai lầm ở một điểm cực kỳ quan trọng. VND neo với USD thì không có nghĩa là xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ, hay kể cả vào các thị trường khác sử dụng USD làm đồng tiền thanh toán không bị ảnh hưởng. Đơn giản vì không chỉ có Việt Nam mà nhiều đối thủ khác, ví dụ là các nước trong khu vực như nêu ở bảng trên cũng xuất khẩu vào các thị trường này. Với đồng bản tệ đã bị mất giá nhiều so với USD và VND, xuất khẩu của các nước này vào Mỹ và các thị trường khác chắc chắn sẽ tăng lên, đồng nghĩa với việc họ “ăn” mất thị phần xuất khẩu của Việt Nam ở cùng những thị trường đó. Đó là chưa kể xuất khẩu của Việt Nam vào chính các nước đối thủ khu vực này cũng sẽ bị sụt giảm vì bản tệ của họ đã mất giá so với VND. Suy rộng ra, Việt Nam sẽ bị mất lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu không chỉ với các nước trong khu vực mà còn với bất cứ nước nào trên thế giới có bản tệ yếu đi so với USD (và tức là với VND) và có cùng mặt hàng cũng như thị trường xuất khẩu như của Việt Nam. Mỗi 1 điểm phần trăm mất giá của các bản tệ này sẽ có tác dụng tương tự như 1 điểm phần trăm hoàn thuế xuất khẩu mà chính phủ các nước này trợ cấp cho nhà xuất khẩu của họ, giúp họ lấn lướt thêm các nhà xuất khẩu Việt Nam.

Điều tương tự xảy ra ở phương diện nhập khẩu. Các nước có bản tệ yếu đi so với USD và VND (không chỉ trong khu vực như nêu trong bảng trên mà còn trên thế giới) sẽ có thêm lợi thế xuất khẩu vào thị trường Việt Nam. Mỗi 1 điểm phần trăm mất giá của các bản tệ này có tác dụng tương đương như hạ đi 1 điểm phần trăm thuế đánh lên hàng xuất khẩu của họ vào thị trường Việt Nam, giúp hàng hóa của họ thêm lợi thế tràn vào lấn lướt, chèn ép hàng nội địa, làm thu hẹp sản xuất nội địa ở Việt Nam.

Tóm lại, tác động của việc VND lên giá so với nhiều bản tệ trên thế giới diễn ra trên diện rộng hơn nhiều, chứ không bó hẹp trong phạm vi xuất khẩu (và một số ít thị trường xuất khẩu) của Việt Nam như NHNN hay nhiều người quan niệm như hiện nay.

(3) Đành rằng để tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu hiện nay yếu tố chính không phải là tỷ giá. Nhưng nếu tỷ giá gây bất lợi cho xuất khẩu thì có nghĩa là yếu tố tỷ giá sẽ triệt tiêu đi một phần hay toàn bộ những cố gắng cải thiện tính cạnh tranh của nhà xuất khẩu Việt Nam. Bởi thế, cùng một logic như của NHNN, để tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam thì nâng cao chất lượng, mẫu mã... không thôi là không đủ, mà phải có sự hỗ trợ của tỷ giá! Và cũng cùng một lý do này mà nhiều nước chủ động để bản tệ của họ yếu đi nhằm hỗ trợ cho xuất khẩu, chứ các chính phủ này không để mặc nhà xuất khẩu của mình tự loay hoay tìm sự sống còn theo kiểu như ở Việt Nam thế này.

(4) Chính xác ra thì cần phải nói rằng nhập siêu đang tăng trở lại. Chứ còn nhập khẩu đang tăng trở lại là điều bình thường và lành mạnh nếu nền kinh tế vẫn tăng trưởng và xuất khẩu cũng tăng và lớn hơn nhập khẩu để sao cho luôn đạt trạng thái cân bằng thương mại hoặc xuất siêu. Nếu đã rơi vào tình trạng nhập siêu như hiện nay thì việc không phá giá VND để kìm hãm chi phí nhập khẩu (nếu quy ra VND) sẽ không làm giảm khó khăn cho nền kinh tế vì nhập siêu có nghĩa là phải đi vay mượn nước ngoài để thanh toán cho số hàng nhập khẩu vượt trội này. Giải pháp cơ bản phải là phải tìm cách hạn chế nhập siêu, và một trong những công cụ hữu hiệu nhất là phá giá VND để vừa thúc đẩy xuất khẩu đồng thời lại góp phần hạn chế nhập khẩu (vì phá giá bản tệ sẽ có tác dụng như việc tăng thuế nhập khẩu tương ứng lên hàng nhập khẩu).

Điều chỉnh tăng tỷ giá đúng là sẽ khiến chi phí sản xuất tính bằng đồng Việt Nam tăng lên nhưng điều này không ảnh hưởng đến giá bán và lợi nhuận của hàng xuất khẩu. Giá xuất khẩu tính bằng USD, được cố định trong hợp đồng xuất khẩu. Giá nguyên vật liệu nhập khẩu cũng được tính bằng USD và cũng đã cố định trong hợp đồng nhập khẩu. Trong khi đó, những chi phí sản xuất phát sinh trong nước như tiền lương, điện nước, mặt bằng, thuế, phí, nguyên phụ liệu mua trong nước v.v... do tính bằng VND nên khi điều chỉnh tăng tỷ giá VND thì những chi phí này sẽ lại giảm đi nếu tính theo USD (và càng điều chỉnh tỷ giá mạnh thì chi phí này càng nhỏ đi nếu tính theo USD). Bởi vậy, trong đẳng thức: Lợi nhuận xuất khẩu (USD) = Giá xuất khẩu (USD) – Chi phí đầu vào nhập khẩu (USD) – Chi phí phát sinh trong nước (USD), khi giá xuất khẩu và chi phí đầu vào nhập khẩu cố định mà chi phí phát sinh trong nước giảm đi do VND bị mất giá thì rõ ràng lợi nhuận của nhà xuất khẩu sẽ tăng lên tương ứng với mức độ mất giá VND, chứ sao lại nói là không đáng kể?

(5) Nếu đúng như NHNN nói là đã đưa tiền ra khá nhiều, chủ yếu qua kênh mua ngoại tệ, làm giảm mặt bằng lãi suất, thì lẽ ra, theo lý thuyết, tỷ giá phải chịu áp lực điều chỉnh tăng lên (và hạ giá bản tệ trên thực tế chính là mục đích theo đuổi của 24 nước đã nới lỏng tiền tệ tính đến ngày 12/3*). Nhưng tỷ giá VND lại tương đối ổn định. Điều này có nghĩa là hoặc việc đưa tiền ra của NHNN là chưa đủ lớn để hạ lãi suất (và cũng tức là giảm giá VND), hoặc NHNN lại dùng những công cụ nào đó (gồm cả công cụ hành chính) để “trói” tỷ giá.

(6) Đúng là VND mất giá qua các năm, ngay cả trong giai đoạn mà USD liên tục giảm giá. Nhưng mức độ mất giá của VND là quá nhỏ so với, ví dụ, chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và Mỹ, cũng như mức độ mất giá của các bản tệ khác hiện nay. Nên VND đã lên giá thực so với USD nói riêng và các bản tệ khác nói chung, dẫn đến áp lực phá giá/điều chỉnh tỷ giá VND ngày càng dồn nén, và bởi vậy sẽ là một rủi ro lớn, không thể không lo lắng, nếu tỷ giá VND không được điều chỉnh linh hoạt hơn.

(7) Phá giá đúng là sẽ làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài của chính phủ và doanh nghiệp, nhưng cần lưu ý rằng gánh nặng này chỉ tăng lên nếu quy ra VND, chứ còn nó sẽ không đổi nếu tính bằng USD, trước và sau khi phá giá. Để tránh cho chính phủ và doanh nghiệp phải trả nhiều VND hơn cho cùng một khối lượng nợ bằng USD thì NHNN phải giữ ổn định tỷ giá, hoặc phải cung cấp một lượng USD tương ứng với mức tỷ giá thấp hơn tỷ giá mà thực tế đòi hỏi (tỷ giá thị trường tự do). Điều này có nghĩa là NHNN phải bao cấp, “bù giá” cho chính phủ và doanh nghiệp. Nói cách khác, NHNN sẽ phải đứng ra gánh thiệt hại thay cho chính phủ và doanh nghiệp, và phí tổn này sẽ được tính hết vào quỹ dự trữ ngoại hối. Như thế, tránh tăng gánh nặng nợ nước ngoài cho doanh nghiệp và chính phủ bằng cách không phá giá thì sẽ phải đánh đổi lấy sụt giảm dự trữ ngoại hối. Đồng thời, nếu cứ được bao cấp thế này thì tội gì mà doanh nghiệp không bạo tay đi vay nước ngoài? Vậy có nên đánh đổi?



No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).