http://cafef.vn/doi-dung-ngan-sach-xu-ly-no-xau-nhung-cu-the-the-nao-thi-lai-khong-ro-20160930081844198.chn
Hiện nay có một nghịch lý là có nhiều người đòi dùng ngân sách để xử lý nợ
xấu nhưng cụ thể việc dùng ngân sách để xử lý nợ xấu như thế nào thì lại được
đề cập đến một cách khá mơ hồ, không rõ ràng.
Đa dạng kênh rót vốn
ngân sách xử lý nợ xấu
Nhìn chung, từ các kiến nghị xử lý nợ xấu bằng ngân sách có thể tổng hợp ra
đây 3 kênh khác nhau dùng ngân sách để xử lý nợ xấu bằng ngân sách như sau.
Theo kênh thứ nhất, tiền ngân sách xử lý nợ xấu không phải là chuyển cho
không các tổ chức tín dụng (TCTD) để bù các khoản thiếu hụt trong quá trình xử
lý nợ xấu, cũng không phải cho không các doanh nghiệp được giao nhiệm vụ xử lý
nợ xấu (ở đây là VAMC) để mua nợ xấu. Mà ngân sách sẽ ứng ra và sẽ thu về sau
khi VAMC xử lý được nợ xấu. Theo cách này, VAMC dùng tiền mua nợ theo giá thị trường, rồi bán nó hoặc bán tài sản bảo đảm để thu hồi
vốn (có thể lãi hoặc lỗ).
Ở kênh thứ hai, nhiều nợ xấu đã thuộc sở hữu của Nhà nước khi nợ xấu
chủ yếu nằm trong các ngân hàng yếu kém mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã mua với
giá 0 đồng trong thời gian qua. Điều này có nghĩa là khi các ngân hàng này thuộc
sở hữu của Nhà nước thì Nhà nước cũng phải xử lý nợ xấu này. Ngoài ra, các nhà
đầu tư không bao giờ mua những ngân hàng yếu kém vì tỷ lệ nợ xấu cao và không
minh bạch. Do đó, Nhà nước đã mua
những ngân hàng này thì phải dùng nguồn lực để xử lý nợ xấu, tức dọn dẹp sạch sẽ
để từ đó mới có thể bán các ngân hàng này cho nhà đầu tư.
Với kênh xử lý nợ xấu bằng
vốn ngân sách thứ ba thì vốn ngân sách được dùng như
một loại tín dụng nhà nước, cho các ngân hàng vay trong 5-10 năm với một mức
lãi suất nào đó. Sau thời gian này các TCTD bán được tài sản đảm bảo (cho các
khoản nợ xấu) để trả lại. Hoặc nhà nước phát hành trái phiếu xử lý nợ xấu bán rộng
rãi với lãi suất bằng lãi suất cho vay lại các tổ chức tín dụng. Nếu xử lý được
nợ xấu thì ngân hàng sẽ có lãi nhiều hơn, đóng góp nhiều hơn vào ngân sách.
Kênh nào cũng mơ hồ,
nhầm lẫn
Với kênh thứ nhất, như đã chỉ ra, bản thân VAMC đang bế tắc với nợ xấu họ
đã mua về do những trở ngại đã được thẳng thắn nhìn nhận bởi ngay cả người
“trong cuộc” là ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch HĐQT VAMC mới đây khi chia xẻ về
những khó khăn trong hoạt động của VAMC. Theo đó, VAMC không cần thêm tiền vì
ngay cả 2,000 tỷ đồng vốn cấp trước đây VAMC cũng chưa dùng tới một đồng nào.
Cái mà họ cần là hành lang pháp lý thông thoáng, có thị trường mua bán nợ xấu vận
hành, cơ chế xử lý tài sản đảm bảo phải thực hiện nghiêm...
Như vậy, dù có sốt ruột xử lý nợ xấu đến đâu nhưng nếu định xử lý bằng cách
rót thêm vốn ngân sách cho VAMC (tất nhiên không phải là cho không), thì hầu
như kết cục biết trước vẫn sẽ là nợ xấu mua về sẽ tiếp tục “dồn kho” tại VAMC
mà khó có thể xử lý, bán chúng đi được. Nói cách khác, nhiều người đề xuất dùng
ngân sách, dùng tiền tươi để xử lý nợ xấu thông qua VMAC mà dường như chỉ hiểu
mơ hồ về hoạt động của VAMC. Họ đã không ý thức được rằng (trong cơ chế) hiện tại
thì VAMC không phải là công cụ, là kênh xử lý nợ xấu hiệu quả, và vấn đề ách tắc
trong xử lý nợ xấu không phải vì không có hay thiếu tiền tươi, tiền thật (để
mua nợ xấu với giá thị trường).
Trong kênh xử lý nợ xấu thứ hai tại các ngân hàng thương mại yếu kém bị
NHNN mua lại với giá 0 đồng, đồng ý rằng NHNN là đại diện chủ sở hữu nhà nước sẽ
phải “dọn dẹp”, xử lý nợ xấu tại các ngân hàng này thì mới có thể bán lại chúng
cho các nhà đầu tư. Nhưng NHNN còn là một ngân hàng trung ương với các công cụ
điều tiết như tái cấp vốn, tái chiết khấu để đảm bảo cho các ngân hàng thương mại
hoạt động an toàn. Nguồn tiền cấp cho các công cụ này không phải là từ ngân
sách, mà là từ sự tạo tiền dưới tư cách một ngân hàng trung ương.
Với những ngân hàng 0 đồng có vốn chủ sở hữu âm, không đủ tư cách và nguồn
lực để hoạt động một cách lành mạnh thì việc NHNN cần phải làm trước tiên và có
thể làm là cho vay tái cấp vốn để chúng tạm thời hoạt động bình thường trở lại
và nguồn vốn tái cấp vốn này có thể dùng trong nhiều nghiệp vụ như để chi trả
các nghĩa vụ nợ với khách hàng, để xử lý, trích lập dự phòng nợ xấu... Ở đây dù
có việc xử lý nợ xấu nhưng không có việc ngân sách phải bỏ tiền ra.
Có người sẽ lập luận rằng tiền của NHNN tạo ra thì cũng là tiền của ngân
sách (vì NHNN cũng là ... Nhà nước!). Lập luận như vậy là sai vì cung tiền của
NHNN cho nền kinh tế không bao giờ được hạch toán như một nguồn ngân sách, hay
được coi là một khoản tín dụng từ ngân sách cho nền kinh tế. Tiền rót từ NHNN
qua kênh tái cấp vốn cho các ngân hàng 0 đồng nếu không thu hồi được thì ngân
sách nhà nước cũng không vì thế mà phải ghi giảm trừ một khoản thu tương ứng. Tất
nhiên, việc tái cấp vốn cho các ngân hàng 0 đồng của NHNN cũng sẽ để lại hậu quả
(ví dụ, lạm phát), nhưng đó là vấn đề khác, không bàn ở đây.
Như vậy, về nguyên tắc, dù là xử lý nợ xấu tại các ngân hàng 0 đồng thì
cũng không cần ngân sách phải ứng vốn cho các ngân hàng này. Nói cách khác, việc
dùng vốn ngân sách với việc xử lý nợ xấu tại các ngân hàng (thông thường hay 0
đồng) là hai việc không nhất thiết liên quan với nhau, bắt buộc phải đi kèm với
nhau.
Và cuối cùng, trong kênh xử lý nợ xấu thứ ba, theo đó vốn ngân
sách (hay từ phát hành trái phiếu) sẽ được cho các ngân hàng vay trong 5-10
năm. Nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là các ngân hàng vay để xử lý nợ xấu, nhưng là
xử lý như thế nào, hay, nói cách khác, họ sẽ làm gì với số tiền đi vay này thì rất
tiếc là lại không thấy đề cập đến!
Nhiều ngân
hàng không tự xử lý được nợ xấu, dù không có vấn đề gì về thanh khoản hay tỷ lệ
vốn an toàn tối thiểu để mà kêu gọi phải rót vốn cho họ. Và nợ xấu thì cứ nằm
“chình ình” trên bảng cân đối của họ từ năm này sang năm khác, để rồi buộc phải
bán cho VAMC (và hầu như cũng sẽ tiếp tục nằm “chình ình” tại VAMC). Nay có rót
thêm vốn cho họ thì, về nguyên tắc, nợ xấu cũng không vì thế mà dễ bề giải quyết
hơn, dễ bán hơn. Hay, nói cách khác, việc rót vốn từ ngân sách cho các ngân
hàng vay trong thời hạn 5-10 năm hầu như chẳng có liên quan gì đến việc thúc đẩy
giải quyết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng.
Thêm nữa,
như nói ở trên, NHNN hoàn toàn có thể tái cấp vốn cho các ngân hàng để xử lý nợ
xấu, nếu cần, mà không nhất thiết cứ phải dùng ngân sách.
Tóm lại,
qua việc tập hợp và phân tích các đề xuất dùng ngân sách xử lý nợ xấu như trên
có thể nói rằng việc/bối cảnh dùng ngân sách để xử lý nợ xấu chưa bao giờ được
hiểu một cách đúng đắn và rõ ràng ở Việt Nam.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ
(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
No comments:
Post a Comment