Wednesday, 30 July 2014

Rủi ro ai gánh? (Bài đăng trên TBKTSG, 31/7/2014, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/118236/Rui-ro-ai-ganh?.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa có văn bản số 5342/NHNN/TTGSNH gửi tới các tổ chức tín dụng yêu cầu đẩy mạnh việc cho vay vốn ra thị trường, đặc biệt đối với khách hàng không có tài sản đảm bảo (vay tín chấp). Ngoài ra, NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng chủ động cơ cấu lại các khoản vay vốn có lãi suất cao trước đây, trên cơ sở thông tin về đánh giá tín nhiệm quốc gia, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.

Để làm được những việc trên, NHNN yêu cầu các ngân hàng phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế để áp dụng có hiệu quả vào việc phân loại nợ, đánh giá chất lượng tín dụng khách hàng làm cơ sở để xem xét cho vay khách hàng... Đây sẽ là cơ sở để các nhà băng xem xét cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp.

Có cái gì bất ổn với chỉ đạo trên của NHNN?

Tuy chỉ đạo này là hợp lý về mặt đạo đức, vì có thể nó xuất phát từ mong muốn làm điều tốt cho nền kinh tế thông qua việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng, cung cấp vốn đầy đủ cho nhu cầu vốn của các doanh nghiệp, nhưng nó mang nặng dấu ấn của nền kinh tế chỉ huy và... nửa vời!

Theo văn bản trên, NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho vay tín chấp dựa trên thông tin đánh giá tín nhiệm quốc gia và xếp hạng tín dụng nội bộ. Nhưng cần lưu ý rằng thông tin đánh giá tín nhiệm quốc gia không có liên quan (trực tiếp) gì đến, không cho biết điều gì về đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp. Nên việc NHNN yêu cầu cho vay tín chấp doanh nghiệp dựa trên đánh giá tín nhiệm quốc gia xem ra là điều rất... bất thường.

Hơn nữa, một khi ngân hàng thương mại đã có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để đánh giá chất lượng tín dụng khách hàng thì họ chắc chắn đã biết được rằng có thể cho vay như thế nào, bao nhiêu cho một khách hàng nào đó, dựa trên những tiêu chí cho vay của riêng ngân hàng đó (chẳng hạn, với khách hàng loại A thì cho vay tối đa bao nhiêu, có thể cho vay tín chấp được hay không và bao nhiêu; với khách hàng loại B thì không thể cho vay tín chấp được ...).

Nói cách khác, dù không có chỉ đạo trên của NHNN thì một ngân hàng thương mại nào đó vẫn có thể đã và đang cho vay tín chấp dựa trên những tiêu chí đánh giá và phân loại khách hàng riêng của mình (tất nhiên là hệ thống đánh giá, phân loại này thường được sự đồng ý, phê duyệt của NHNN ít nhất là thông qua các đợt kiểm toán, thanh tra của NHNN). Nói cách khác, chỉ đạo trên của NHNN có thể là điều thừa trên thực tế.

Nay, NHNN yêu cầu đẩy mạnh cho vay tín chấp, thì có thể hình dung 2 khả năng ở đây. Khả năng thứ nhất, một số ngân hàng thương mại không có hệ thống đánh giá tín dụng nội bộ và NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại này phải xây dựng hệ thống này. Tuy việc một ngân hàng nào đó không có hệ thống đánh giá tín dụng nội bộ là điều khó có khả năng xảy ra, nhưng dù trên thực tế có thế thì, thay vì ra một văn bản yêu cầu chung chung cho toàn bộ hệ thống ngân hàng như vậy, NHNN cần gửi công văn trực tiếp đến từng ngân hàng có vấn đề yêu cầu họ giải quyết việc này, và đây là một thiếu sót lớn của NHNN khi cấp phép và/hoặc theo dõi hoạt động của ngân hàng thương mại khi họ hoạt động mà không có hệ thống đánh giá tín dụng nội bộ.

Và lưu ý rằng việc NHNN yêu cầu ngân hàng thương mại xây dựng hệ thống đánh giá tín dụng nội bộ không có nghĩa là ngân hàng đó có nghĩa vụ phải cho vay tín chấp, nếu như bản thân ngân hàng đó không thích cho vay tín chấp, đơn giản vì e ngại rủi ro. Một ví dụ nhãn tiền về chuyện rủi ro có thể xảy ra với bất cứ ai, dù là khách hàng có độ tin cậy tín dụng cao, đó là thông thường, các ngân hàng thương mại khi cho vay ngắn hạn với nhau trên thị trường liên ngân hàng không yêu cầu phải có tài sản thế chấp. Thế nhưng, đã có thời điểm khi thanh khoản hệ thống căng thẳng, một số ngân hàng thương mại yêu cầu phải có tài sản thế chấp vì nhiều ngân hàng đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ đúng hạn.

Điều này dẫn đến khả năng thứ hai. Đó là, NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại, dù muốn hay không, vẫn phải cho vay tín chấp, và/hoặc hạ thấp điều kiện để cho vay tín chấp. Thế nhưng, khi xảy ra hậu quả cho ngân hàng thương mại, ví dụ khách hàng mất khả năng chi trả, liệu NHNN có gánh hậu quả này thay cho ngân hàng thương mại bị mất vốn không? Câu trả lời hầu như chắc chắn là không,và vì thế mới có thể nói là yêu cầu trên của NHNN là mang dấu ấn của nền kinh tế chỉ huy nửa vời, vì ở đây NHNN chỉ ra lệnh mà không phân bổ nguồn lực để cho ngân hàng thương mại thực hiện mệnh lệnh, không giống như trong nền kinh tế chỉ huy thuần túy với các cơ quan quản lý phân bổ các nguồn lực cho các đơn vị kinh tế và yêu cầu họ thực hiện các mệnh lệnh của mình.

Ngoài ra, văn bản trên của NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng thương mại hướng việc cho vay vốn vào các dự án trọng điểm, dự án lớn có hiệu quả và các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ và quy định của pháp luật. 

Tương tự như đã phân tích ở trên, đây có thể cũng là một thiện ý của NHNN cho cả nền kinh tế nhưng nó cũng chỉ là hiện thân của một kiểu tư duy cũ và nửa vời. Cần hiểu rõ rằng cho vay các dự án trọng điểm, dự án lớn có hiệu quả và các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ không luôn đồng hành với lợi nhuận cao và ít rủi ro hơn so với cho vay các lĩnh vực và dự án thông thường khác. Nay NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại hướng cho vay vào những lĩnh vực và dự án này nhưng nếu xảy ra thua lỗ, mất mát vốn từ những khoản cho vay này thì liệu NHNN sẽ chịu trách nhiệm bồi thường, hoặc có một hình thức hỗ trợ gì đó cho các ngân hàng thương mại bị chỉ đạo không? Hay ai sẽ gánh trách nhiệm thay?

Tóm lại, có nhiều vấn đề bất ổn trong một văn bản cho thấy dường như nhà quản lý không quan tâm và/hoặc không hiểu rõ lĩnh vực và đối tượng quản lý của mình. Thay vào đó, cứ ra văn bản thể hiện ý chí và quyền lực của mình mới là điều quan trọng với họ.

13 comments:

  1. Đ/c Ngọc có đọc nguyên văn của van bản này chưa? Đó là chỉ thị tức ra lệnh bắt buộc hay chỉ là đề nghị của NHNN? Tôi thấy trên website của NHNN chỉ ghi là "đề nghị các tổ chức tín dụng..." mà. Nếu chỉ là một văn bản mang tính kêu gọi, gợi ý thì có gì mà bắt bẻ? Nếu là chỉ thị, bắt buộc thì sai, nhưng kêu gọi, gợi ý thì cũng tốt chứ sao?

    ReplyDelete
  2. Trên website của NHNN ghi:

    "Theo đó, NHNN đề nghị các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài triển khai thực hiện một số giải pháp, bao gồm:

    Chủ động tiếp cận với các khách hàng có nhu cầu vay vốn để tư vấn, hỗ trợ về việc hoàn thiện các thủ tục, hồ sơ vay vốn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng; ưu tiên tập trung vốn cho vay đối với các dự án trọng điểm, dự án lớn có hiệu quả và các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ và quy định của pháp luật;

    Xây dựng quy trình thu thập, khai thác thông tin về đánh giá tín nhiệm, hoạt động của khách hàng từ các tổ chức hoạt động chính thức (Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp…), kết hợp với hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng vay nhằm tăng cường khả năng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, đơn giản hóa thủ tục cho vay, cơ cấu lại các khoản vay vốn có lãi suất cao trước đây, đảm bảo an toàn hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của pháp luật;..."

    Nghĩa là đây là một văn bản mang tính kêu gọi, đề nghị, gợi ý chứ không phải chỉ thị bắt buộc. Đúng ko?

    ReplyDelete
  3. Đồng chí không nghĩ là một lời đề nghị từ một cơ quan chỉ huy/đạo (cấp trên) không phải là một lời yêu cầu, chỉ thị, bắt buộc hay sao?

    Sếp đồng chí nói với đồng chí thế này: "Tôi đề nghị anh sửa lại nề nếp làm việc cho tốt", thì đồng chí có kệ được không?

    ReplyDelete
  4. D/c lại suy diễn rồi. Mình nghĩ trong bối cảnh khó khăn chung NHNN đề nghị, kêu gọi các TCTD nới rộng hình thức cho vay... là chuyện bình thường. Có gì đâu mà đ/c "phang" chí mạng dữ vậy. Cái nào đáng phang thì phang, ko đáng thì thôi. Gặp gì cũng phang coi chừng có ngày gãy chân mình đ/c ơi.

    ReplyDelete
  5. Đ/c nói NHNN là cấp trên của các ngân hàng là cố tình nhét chữ vào ... các quy định pháp luật rồi đó. Nói vậy, chắc đ/c cũng nghĩ Sở KH-ĐT là cấp trên của các doanh nghiệp hả? Những cớ quan ấy đang làm chức năng quản lý nhà nước chứ không phải là cấp trên để có thể muốn ra lệnh gì thì ra, muốn chỉ đạo gì thì chỉ. Các ngân hàng TM có ĐHĐCĐ, có HDQT, TGĐ và toàn quyền hoạt động trong khuôn khổ pháp luật chứ đâu phải hoạt động theo sự chỉ đạo, điều hành toàn diện của NHNN? Đ/c hiểu sai như vậy nên phang cũng sai luôn!

    ReplyDelete
  6. Đồng chí cứ nghĩ như vậy cho thanh thản nhé. Còn tớ, tớ biết đấy là một chỉ đạo/yêu cầu.

    Đồng chí nói đến chuyện có ngày gãy chân. Đây có phải là một lời đe dọa không đấy?

    ReplyDelete
    Replies
    1. Ý tôi nói là đ/c phang lung tung, người ta sẽ phang lại là mệt đấy! Tôi thấy đ/c Ngọc hơi cực đoan. Nhiều cái chưa hiểu hết hàm ý người viết hoặc đọc chưa kỹ mà đã phang rồi. Tuy vậy, như đã nói, thỉnh thoảng có đ/c khuấy lên cũng vui.

      Delete
    2. Tớ đã đi phang thì sẵn sàng và thách các đồng chí phang lại tớ, rõ chưa? Đồng chí thấy ai, hoặc đồng chí bị phang oan thì cứ phang lại tớ trên báo, hoặc tệ lắm thì vào đây phang nhé, tớ welcome.

      Delete
  7. Mấy hôm nay thấy bác Ngọc “tứ bề thọ địch” mà thương quá. “Phang” tiên sinh bị phang tứ hướng. Những thật tình, đọc hết các comment thấy hay quá. Mình như ếch ngồi đấy giếng. Lúc đầu, nhìn lên thấy Phan tiên sinh (đúng họ Phan nhé, nói Phang TS là nói vui thôi) sáng vằng vặc như trăng rằm; bây giờ lên khỏi miệng giến, thấy trên đời còn nhiều cao thủ võ lâm khác. Đúng mình là ếch thật huhu. Dù sao thì bác cũng đừng xóa các comment phang vừa rồi nhé. Xem diễn đàn này hay hơn đọc báo. Bác cứ khuấy “bột” lên cho nên “hồ” cũng vui.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Không sao. Nhưng tớ e rằng đã là ếch thì có ngồi ở đáy giếng hay lên miệng thì nhìn trời nhìn đất vẫn chỉ thấy vậy thôi, không gì thay đổi, hehe.

      Delete
    2. Khổ, con ếch thật, nhiều khi nó không biết nó là con ếch. Chỉ người khác nhìn thì mới nói cho nó biết nó là con ếch. Bác nên nhờ người khác nhìn để biết mình có phải là ếch không. Biết đâu được hả bác?

      Delete
    3. Tớ tránh đấu khẩu kiểu này với đồng chí, nhưng cũng phải nói lần cuối cùng rằng đồng chí là một số 0 tròn trĩnh nên mới phải giấu mặt, và có xưng tên ra thì cũng không ai biết đồng chí là ai (kể cả tớ). So thế thì đủ biết ai là ếch, hiểu chưa?

      Delete
    4. Haha vài bài báo không nói lên tên tuổi đâu bác ạ! Bác cũng từng chê nhiều kẻ viết báo là dốt đó sao? Những bài báo tiếng Việt của bác nếu dịch từ tiếng Anh ra thì đầy trên mạng và trong sách GK; còn nếu là tiếng Anh thì cũng đầy (just copy and paste) và không cần phải dịch. Bác còn chưa biết những người comment là ai mà bác bảo không ai biết. Tính kiêu căng của bác thật là hết thuốc chữa!

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).