Friday, 30 January 2015

Giảm phát cũng có dăm bảy đường! (Bài đăng trên CafeF, 31/1/2015)

http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/giam-phat-cung-co-dam-bay-duong-20150131081625925.chn

Lạm phát đã diễn ra với nhiều bất ngờ, bắt đầu với 2 tháng liên tục rơi xuống mức âm trong cuối năm 2014, và càng bất ngờ vào tháng 1 năm nay, tháng cận Tết Nguyên đán, mà vẫn giảm tiếp 0,2% so với tháng 12/2014.

Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm qua, lạm phát tháng cận Tết tụt xuống mức âm. Bởi vậy, không ngạc nhiên khi có nhiều ý kiến cho rằng đây là biểu hiện rõ nét của giảm phát, do sức cầu giảm, tổng cầu yếu.

Trong một bài trả lời phỏng vấn thấu đáo và xác đáng mới đây, Tổng cục Thống kê (TCTK) đã đưa ra nhiều luận cứ và số liệu cho thấy một cách thuyết phục lạm phát tụt giảm như vừa qua không phải là do tổng cầu yếu.

Trong bài này, xin được bổ sung thêm một số yếu tố để bác bỏ mối lo ngại của nhiều người về lạm phát âm (giảm phát) ở Việt Nam, đặc biệt khi gắn nó một cách khiên cưỡng với chuyện tổng cầu yếu.

Thứ nhất, điều khác biệt cơ bản giữa Việt Nam với một số nước trên thế giới hiện đang phải đối mặt với nạn/nguy cơ giảm phát như EU hay Nhật là tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức cao hơn nhiều (6% năm 2014), và còn được dự đoán sẽ cao hơn nữa trong năm nay, đối nghịch với tình trạng tăng trưởng thấp, cận 0 hoặc thậm chí là âm của những nước và khu vực này, phản ánh tình trạng cầu trì trệ hoặc tiếp tục sụt giảm đi kèm với nạn thất nghiệp gia tăng và đứng ở mức cao.

Bởi vậy, tuy có thể là Việt Nam đang có dấu hiệu giảm phát – thuần túy nhìn từ con số thống kê, tức chỉ số CPI – nhưng cái giảm phát ở Việt Nam không phải là điều quan ngại vì nó không phải là biểu hiện của, không kéo theo suy giảm tổng cầu, không làm gia tăng thất nghiệp và tụt giảm thu nhập người lao động. Vì thế, không thể hễ cứ thấy có hiện tượng giảm phát là lại gióng lên hồi chuông báo động về những hậu quả theo lý thuyết của nó, để rồi khuyến nghị những chính sách chống giảm phát (tức làm tăng lạm phát) đầy rủi ro và nguy hại.

Thứ hai, giảm phát ở Việt Nam chỉ là hiện tượng mới xảy ra trong những tháng gần đây, chứ không nhất thiết sẽ là một xu hướng kéo dài trong cả năm nay. Quan trọng hơn, giảm phát ở Việt Nam là do yếu tố (tích cực) từ bên ngoài tác động đến, mà chủ yếu là do giá dầu thô thế giới tụt giảm. Như TCTK đã phân tích cho thấy, hầu như chỉ có nhóm hàng hóa dịch vụ vận tải, nhà ở và vật liệu xây dựng là nhóm chủ yếu trong rổ hàng hóa tính CPI có chỉ số giảm đi, song hành với sự sụt giảm của giá dầu thô thế giới. Các nhóm hàng hóa còn lại trong rổ hàng hóa tính CPI đều tăng lên so với tháng 12/2014. Điều này chứng tỏ rằng giảm phát ở Việt Nam không phải do những yếu kém nội tại như cầu yếu, thất nghiệp cao, thu nhập dân cư sụt giảm hoặc trì trệ, không dám chi tiêu v.v...

Ngược lại, ở nhiều nơi so sánh khác như EU và Nhật, sự giảm phát là hậu quả của những yếu kém nội tại, là sản phẩm “cây nhà lá vườn” và sự tụt giảm giá dầu chỉ “đổ thêm dầu vào lửa” mà thôi. Ở những nơi này, những câu chuyện về con số thất nghiệp gia tăng kỷ lục hay người dân phải bóp bụng chi tiêu, còn chính phủ thì hết ra gói kích thích này đến biện pháp hỗ trợ khác chỉ cốt để cho người dân mạnh dạn chi tiêu nhiều hơn... là những câu chuyện thời sự hàng ngày, liên tục trong nhiều ngày, nhiều tháng qua.

Cũng có liên quan với điểm này là khả năng kéo dài của tình trạng giảm phát ở Việt Nam. Như đã phân tích, lạm phát tụt giảm mạnh chủ yếu là do giá dầu thô, một yếu tố bên ngoài không thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam. Bởi thế, tình trạng giảm phát rất có khả năng sẽ đảo chiều nhanh chóng khi giá dầu thô phục hồi trở lại từ mức đáy như hiện nay, dù chỉ là ở mức thấp hơn nhiều so với nửa năm trước đây. Nên, chớ có vội lo lắng thái quá cho cái gọi là “giảm phát” ở Việt Nam.

Thứ ba, giảm phát ở Việt Nam xảy ra còn có sự góp mặt của những biện pháp bình ổn và quản lý giá hành chính mà nếu không có chúng thì giảm phát đã không xảy ra mà thay vào đó là lạm phát. Một ví dụ là chuyện giá cước giao thông vận tải đã và đang được các cơ quan hữu quan cố gắng kéo xuống. Nếu giá cả của nhóm này không giảm mạnh thì, như phân tích của TCTK, thậm chí CPI của các tháng vừa rồi còn có khả năng tăng lên, chứ không phải là ở mức âm như trên thực tế hiện nay.

Lập luận ngược lại, cứ theo như ý kiến của những người lo ngại về giảm phát ở Việt Nam, không lẽ các cơ quan chức năng nên thôi ngay các biện pháp quản lý và bình ổn giá hiện đang được nỗ lực và “quyết liệt” thực hiện để cho lạm phát Việt Nam quay trở lại ngưỡng đủ cao (vài điểm phần trăm), thoát khỏi ám ảnh “giảm phát” thì mới là tốt hay sao? Hoặc Việt Nam nên tìm cách “thúc” cho giá cả những hàng hóa và dịch vụ khác tăng lên cốt sao để cho CPI tăng trở lại mới là tốt hay sao?

Tóm lại, với 3 yếu tố nói trên, có thể kết luận rằng giảm phát, nếu có, ở Việt Nam thì cũng không phải là điều lạ lùng, bất ngờ, và quan trọng hơn, không phải là một điều tiêu cực mà vì thế phải bằng mọi giá để ngăn chặn nó xảy ra. Nói cách khác, không phải giảm phát ở đâu cũng giống nhau, nguy hại như nhau!

Thursday, 29 January 2015

Giá cước vận tải nhìn từ góc độ kinh tế học (Bài đăng trên CafeF, 29/1/2015)

http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/gia-cuoc-van-tai-nhin-tu-goc-do-kinh-te-hoc-20150129105858276.chn

Cùng với các đợt giảm giá xăng dầu liên tục và ở mức lớn gần đây, dư luận lại thêm bất bình vì cho rằng các doanh nghiệp vận tải không chịu giảm giá cước hoặc chỉ giảm lấy lệ so với mức giảm sâu của xăng dầu đến 30%-40% qua 17 đợt giảm giá suốt từ tháng 7/2014 đến nay.

Sự bất bình xem ra đã đến đỉnh điểm khi Bộ Tài chính cùng Bộ Giao thông vận tải mới đây cùng bày tỏ quyết tâm sẽ “quyết liệt” xử lý nghiêm các doanh nghiệp vận tải không chịu giảm giá cước trước Tết.

Trong bài này, trước tiên hãy cùng xem có thật là giá cước vận tải không giảm hoặc giảm không đáng kể như báo cáo không. Theo số liệu CPI của Tổng cục Thống kê thì bắt đầu từ tháng 8/2014, chỉ số giá dịch vụ vận tải đã bắt đầu giảm với nhịp độ lớn dần theo nhịp giảm giá xăng dầu (tháng 8: -0,06%, tháng 9/2014:  -1,85%, tháng 10/2014: -1,02%, tháng 11/2014: -2,75%, tháng 12/2014: -3,09%, và tháng 1/2015: -3,96%).

Từ những con số về CPI do Tổng cục Thống  kê công bố rút ra được 2 điều: (1) giá cước vận tải đã thật sự giảm và giảm mạnh trong những tháng cuối năm trước và đầu năm nay theo đà giảm lũy kế của giá xăng dầu; (2) giá cước vận tải là nguyên nhân chính (bên cạnh việc giảm giá nhóm hàng chất đốt và vật liệu xây dựng) làm CPI tăng thấp và thậm chí là âm trong những tháng qua, trong khi nhiều (đa số) chỉ số giá cả các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác trong rổ hàng hóa và dịch vụ để tính CPI vẫn tăng lên.

Điều (1) bên trên cho thấy cái “tội” buộc cho các doanh nghiệp vận tải là hơi bị phóng đại trong con mắt của dư luận. Điều (2) cho thấy tuy chi phí xăng dầu đầu vào cho doanh nghiệp vận tải đã giảm đi và giảm mạnh nhưng đây chỉ là một bộ phận cấu thành trong chi phí vận tải. Các loại chi phí liên quan khác có nhiều khả năng vẫn đã và đang tăng lên nên đã và đang tiếp tục gây áp lực buộc các doanh nghiệp vận tải phải hoặc giữ nguyên, hoặc chỉ giảm giá cước vận tải một cách lấy lệ vì không thể giảm hơn được nếu không muốn bị thua lỗ. Do đó, không thể nhìn vào chuyện giá xăng dầu đã giảm 30%-40% (và lưu ý lại rằng đây là mức giảm lũy kế, qua suốt 17 đợt giảm giá, chứ không phải ngay từ những đợt đầu) để cho rằng giá cước vận tải chỉ giảm vài điểm phần trăm như thể hiện trong cấu thành CPI những tháng qua là không thỏa đáng.

Tiếp theo, hãy thử phân tích hiện tượng giá cước vận tải không giảm mạnh (như kỳ vọng) từ góc độ cung cầu. Khi giá cả của một hàng hóa nào đó không chịu giảm mạnh dù chi phí đầu vào đã giảm mạnh, cần phải hình dung tối thiểu 3 khả năng: (a) cầu về hàng hóa đó đã tăng mạnh; (b) cung hàng hóa đó suy giảm (hoặc giữ nguyên/tăng chậm trong trường hợp cầu đã tăng mạnh); (c) đã có sự cấu kết giữa các nhà sản xuất “làm giá” hàng hóa đó.

Với khả năng (a), rất tiếc là dư luận và kể cả các cơ quan chức năng đã không hề có một lời bình, một động thái phân tích dù là sơ bộ để chứng minh rằng cầu về giao thông vận tải không có gì đột biến, không tăng (mạnh). Trên thực tế, hoàn toàn có lý để tin rằng cầu về giao thông vận tải đã tăng lên đáng kể cùng với đà tăng của, ví dụ, GDP, chỉ số bán lẻ, chỉ số công nghiệp v.v... Và như vậy thì đây chính là một nguyên nhân “giữ giá” cước giao thông vận tải theo đúng quy luật cung cầu của thị trường trong kinh tế học. Nguyên nhân này càng trở nên hiển nhiên vào dịp Tết sắp tới đây khi nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa tăng vọt.

Với khả năng (b), tương tự như vậy, các cơ quan chức năng cũng đã bỏ qua, đã không đưa ra được bất kỳ một thống kê nào về biến động về năng lực vận tải ở Việt Nam trong thời gian qua. Ngược lại, có những dẫn chứng, ví dụ như chuyện “xiết” xe chở quá tải, giám sát và xử phạt nặng về chất lượng xe, để buộc người ta nghĩ rằng năng lực vận tải có lẽ không tăng kịp với đà tăng của nhu cầu vận tải ở Việt Nam.

Với khả năng (c), điều này xem ra khó xảy ra, tuy không thể hoàn toàn phủ nhận, vì thị trường giao thông vận tải ở Việt Nam ít ra là trên bề mặt, là một thị trường khá cạnh tranh. Ví dụ, theo báo chí, thì ở các bến xe như Giáp Bát và Mỹ Đình đã có hàng trăm doanh nghiệp vận tải cùng tham gia hoạt động. Tuy có thể con số doanh nghiệp cho mỗi tuyến đường chỉ là một phần nhỏ của con số này nhưng ít ra nó cũng cho thấy rằng ngành giao thông vận tải không phải là ngành độc quyền hay gần như độc quyền, nằm gọn trong tay của một (vài) doanh nghiệp nào đó. Hơn nữa, cũng theo báo cáo, đã có đến non nửa số doanh nghiệp này đã giảm giá cước theo nhiều mức độ. Điều này càng cho thấy khó có một bàn tay nào đó sau hậu trường điều khiển và thống nhất hành động của tất cả các doanh nghiệp vận tải theo hướng có lợi cho họ được.

Nói như trên không có nghĩa là các cơ quan hữu trách không nên thanh tra, khám phá xem liệu có một sự bắt tay ngầm giữa (một số) các doanh nghiệp vận tải hay không. Và nếu quả là có như vậy thì đây mới là một trong những phương hướng xử lý chính, bằng cách, ví dụ, xử phạt các doanh nghiệp này và người tổ chức theo các tội danh lũng đoạn thị trường để phá vỡ sự cấu kết này, trả lại sự cạnh tranh tự do trên thị trường, dẫn đến giảm giá cước vận tải.

Cuối cùng, ta thử xem xét cách xử lý vấn đề của các cơ quan chức năng. Trong khi chưa hề có một sự thanh tra, phân tích xác đáng nào theo các hướng như nói trên mà các cơ quan này đã đe “xử lý nghiêm” các doanh nghiệp này vì cái tội không chịu hạ giá cước. Vậy họ định xử lý thế nào? Ở Hà Nội, họ định “yêu cầu các doanh nghiệp giảm giá cước”, một biện pháp nghe rất... không được việc (thực tế là có nhiều doanh nghiệp kê khai giảm giá cước nhưng vẫn tìm cách vi phạm giá kê khai này).

Ngoài ra, họ sẽ “yêu cầu các doanh nghiệp xuất trình Báo cáo quyết toán tài chính năm 2013 và 6 tháng năm 2014 cũng như  toàn bộ hồ sơ niêm yết giá, kê khai giá với cơ quan quản lý nhà nước nhất là giai đoạn từ tháng 7/2014 đến nay, để xem việc doanh nghiệp kê khai giá đã hợp lý chưa. Trong trường hợp doanh nghiệp cố tình không hạ giá hoặc cố tình đưa các chi phí bất hợp lý vào giá thành để đẩy chi phí giá thành lên cao, đoàn kiểm tra sẽ bóc tách, yêu cầu hạch toán lợi nhuận, cần thiết sẽ chuyển cơ quan thuế để xác định thuế thu nhập bổ sung. Nếu có lợi nhuận bất hợp lý thì sẽ đề xuất Bộ Tài chính có biện pháp xử lý các khoản thu nhập bất hợp lý cho phù hợp.”

Cách xử lý như trên, cứ cho là sẽ vạch ra được một vài khoản chi phí và lợi nhuận bất hợp lý, nhưng đâu có giúp gì cho việc giảm giá cước vận tải, vì khoản lợi nhuận “bất hợp lý” mà các doanh nghiệp vận tải thu được nhờ giữ giá cước một cách “bất hợp lý” lại được trưng thu và chuyển vào ngân khố Bộ tài chính chứ đâu có được khấu trừ vào giá cước vận tải? Rồi nữa, cứ cho là các doanh nghiệp này sẽ bị truy thu thuế thu nhập bổ sung thì họ vẫn còn có lợi hơn vì dù có bị đánh thuế thu nhập bổ sung  cũng không thể nào lấy đi 100% lợi nhuận phụ trội này của họ được. Như thế thì các doanh nghiệp vẫn còn động cơ giữ giá cước cao để “trục lợi” chứ?

Tóm lại, trong bối cảnh giá xăng dầu giảm, nếu muốn hạ cước giao thông vận tải thì cần bám sát các nguyên lý thị trường để phân tích, đánh giá và đưa ra được cách giải quyết hữu hiệu nhất. Trong trường hợp không giải quyết được các khúc mắc của thị trường (ví dụ cầu tăng mạnh mà cung không tăng kịp) thì buộc phải chấp nhận một mặt bằng giá cước cao hơn kỳ vọng, theo cái lẽ khó chấp nhận nhưng lại là hiển nhiên của thị trường.

Wednesday, 21 January 2015

Đôi điều cần biết về phát hành trái phiếu bằng đồng Yen (Bài đăng trên CafeF, 21/1/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/doi-dieu-can-biet-ve-phat-hanh-trai-phieu-bang-dong-yen-20150121091056772.chn

Bộ Tài chính cho biết hiện đang tiến hành xây dựng lộ trình chủ động tiếp cận thị trường vốn quốc tế dưới hình thức phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ ở nước ngoài. Ngoài trái phiếu phát hành bằng USD phát hành tại các thị trường vốn lớn trên thế giới như đã được thực hiện cuối năm 2014, trái phiếu bằng đồng Yen phát hành tại Nhật cũng đang được chính phủ xem xét. 

Trái phiếu bằng đồng Yen phát hành tại Nhật theo các luật lệ và quy định của Nhật bởi một công ty hoặc tổ chức nước ngoài còn được gọi là trái phiếu samurai (samurai bond). Việc phát hành trái phiếu samurai sẽ mang lại một số lợi ích sau cho nhà phát hành.

Lợi ích thứ nhất, trái phiếu samurai sẽ mang đến cho nhà phát hành một khoản vốn bằng Yen cần thiết giúp họ đầu tư hay thâm nhập vào thị trường Nhật, thay vì phải đi vay từ các ngân hàng thương mại. Đây cũng là một kênh huy động để đa dạng hóa nguồn vốn ngoại tệ, tránh phụ thuộc quá lớn vào (sự biến động của) một nền kinh tế, một đối tác nào đó. Đồng thời, với những khác biệt nhất định giữa thị trường Nhật với thị trường Mỹ hoặc EU, nguồn vốn từ Nhật sẽ đảm bảo cho nhà phát hành có một nguồn tài chính dự phòng khi thị trường Mỹ và EU chao đảo.

Lợi ích thứ hai gắn liền với đặc thù lãi suất rất thấp của đồng Yen trên thị trường vốn Nhật. Lợi dụng ưu thế lãi suất thấp nói chung khi vay bằng đồng Yen, nhà phát hành trái phiếu samurai có thể chuyển đổi lượng vốn thu được sau phát hành sang các loại tiền tệ khác theo nhu cầu của, hoặc tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại của nhà phát hành ở nước sở tại (ngoài Nhật), mà bình thường ra thì sẽ phải huy động và trả lãi cao hơn khá nhiều để có được khoản vốn bằng bản tệ cần thiết này.

Lợi ích thứ ba, trái phiếu samurai đôi khi còn được dùng để phòng chống rủi ro (hedging) ngoại hối. Ví dụ, nhà phát hành có sẵn một hợp đồng mua hàng bằng Yen có thời điểm thanh toán trong kỳ tới, trong khi doanh thu của họ lại chủ yếu bằng USD. Để tránh rủi ro đến thời hạn thanh toán thì đột nhiên Yen mạnh lên so với USD gây thiệt hại, nhà phát hành sẽ qua kênh trái phiếu samurai để dự trữ sẵn một lượng Yen cần thiết dành cho việc thanh toán này, mà không còn phải bận tâm đến rủi ro tỷ giá USD/Yen nữa. Ngược lại, nhà phát hành có thể lợi dụng chính lãi suất thấp của các khoản vay bằng Yen để thực hiện kinh doanh chênh lệch lãi suất (carry trade), ví dụ như đổi nguồn vốn Yen “giá rẻ” này ra đô la Úc (AUD) rồi đem gửi vào ngân hàng tại Úc để hưởng lãi suất cao hơn.

Đặt 3 lợi ích chính bên trên vào hoàn cảnh Việt Nam, nhất là trong bối cảnh quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Nhật đang ngày càng sâu sắc, sẽ thấy sự hiện diện của cả 3 lợi ích này ở quy mô đáng kể.

Tuy vậy, cần lưu ý rằng không phải là vô cớ mà một số tổ chức và nhà đầu tư Nhật mong muốn Việt Nam phát hành trái phiếu samurai, và việc phát hành này cũng không phải là không mang đến rủi ro cho Việt Nam.

Với các nhà đầu tư Nhật, trái phiếu samurai là một “món ngon” để đầu tư vì trái phiếu này được phát hành tại Nhật, theo các luật lệ của Nhật, và như là “cây nhà lá vườn”, rất quen thuộc với họ và đặc biệt phù hợp với khẩu vị đầu tư cẩn trọng của người Nhật. Ngoài ra, trong bối cảnh nền kinh tế Nhật chật vật trong thiểu phát, đầu ra các sản phẩm và kênh đầu tư sinh lời cho các ngân hàng, công ty bảo hiểm và các quỹ hưu trí Nhật rất bị hạn chế nên các ngân hàng, công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí Nhật có xu hướng ngày càng nắm giữ một lượng lớn trái phiếu phát hành nội địa, bằng đồng Yen như là một kênh đầu tư sinh lời phù hợp và ưa thích.

Về phía chính phủ Nhật, không phải vô cớ mà Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) đứng ra nhận bảo lãnh cho các nhà phát hành, đặc biệt là các nước đang phát triển có xếp hạng tín dụng thấp, trong việc trả nợ trái phiếu samurai, vì Nhật cũng đang muốn đẩy mạnh việc sử dụng Yen như một đồng tiền quốc tế.

Bởi vậy, nếu Việt Nam phát hành trái phiếu samurai thì sẽ tạo ra thêm hàng hóa được nhiệt tình đón nhận bởi các nhà đầu tư Nhật. Ví dụ, trong nhiều đợt phát hành trái phiếu samurai của các tổ chức tài chính quốc tế như ADB và WB trước đây, các ngân hàng Nhật đã mua vào với tỷ trọng lớn (có đợt lên tới 80% tổng giá trị phát hành).

Về phía nhà phát hành là chính phủ Việt Nam, ngoài các lợi ích nêu trên, phát hành trái phiếu bằng Yên sẽ phải đối mặt với một rủi ro lớn và chủ yếu, đó là biến động tỷ giá. Tùy thuộc vào mục đích sử dụng nguồn vốn huy động từ trái phiếu samurai của chính phủ Việt Nam mà người sử dụng cuối cùng sẽ gặp bất lợi khi tỷ giá VND/Yen, USD/Yen và tỷ giá giữa Yen với một số ngoại tệ khác biến động mạnh như thời gian qua.

Chẳng hạn, nếu chính phủ cho vay lại nguồn vốn này cho một số doanh nghiệp nhà nước để họ đổi ra USD và dùng vào nhập khẩu máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu sản xuất hàng hóa tiêu thụ trong nước (tức có nguồn thu chủ yếu bằng VND). Bình thường, nếu tỷ giá VND/USD và USD/Yen không biến động mạnh thì Việt Nam nhìn chung là có lợi lớn vì lãi suất trái phiếu samurai thường rất thấp, kể cả với nhà phát hành có mức độ xếp hạng tín nhiệm thấp (theo một nghiên cứu của Bank of America thì lợi suất trái phiếu samurai phát hành bởi một công ty được xếp hạng ở mức “đầu tư” chỉ bằng phân nửa so với lợi suất trung bình trên các thị trường vốn ngoài Nhật).

Nhưng sẽ là thảm họa lớn cho những doanh nghiệp nhà nước này, và rốt cục là ngân sách nhà nước, khi không những VND mất giá so với USD mà đến lượt nó, USD cũng lại mất giá so với Yen.

Huy động vàng trong dân: 5 lý do cần cân nhắc (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 20/1/2015)

http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/huy-dong-vang-trong-dan-5-ly-do-can-can-nhac/1086323/

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam, có khoảng 300-500 tấn vàng, tương đương 20 tỷ USD, đang nằm trong dân - một số vốn "nhàn rỗi" khổng lồ.

Mới đây NHNN đã chính thức được giao nghiên cứu thực hiện các giải pháp huy động vàng trong dân. Tuy nhiên, chủ trương này đã và đang gặp bế tắc ở việc huy động như thế nào và làm gì với số vàng huy động được từ dân.

Một giải pháp huy động và sử dụng hay được đề cập nhất và xem ra khả thi nhất là NHNN phát hành chứng chỉ huy động vàng và trả lãi cho số vàng huy động được này. Về phương án sử dụng, NHNN sẽ giao (hoặc cho vay) số vàng này cho Bộ Tài chính để bộ này đem làm tài sản thế chấp vay nước ngoài lấy ngoại tệ về phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế xã hội.

Theo người viết, giải pháp trên không có tính thực tiễn và không có lợi, vì các lý do sau:
Thứ nhất, khi đã phải huy động bằng chứng chỉ vàng, tức có trả lãi, điều này vô hình trung lại kích hoạt thêm việc đầu cơ nắm giữ vàng trong dân vì họ vừa có thêm công cụ để đầu cơ, bảo toàn tài sản của mình, lại vừa được hưởng lãi, cũng tương tự như việc nắm giữ ngoại tệ. Điều này sẽ làm cho dân chúng càng có xu hướng ly khai mạnh hơn nữa việc nắm giữ tiền đồng, một hậu quả tương tự như nạn “đô la hóa”, và ở đây tạm gọi là nạn “vàng hóa”.

Đô la hóa và nay thêm vàng hóa chắc chắn sẽ càng làm suy yếu thêm tính hữu hiệu của chính sách tiền tệ của NHNN, vì nay VND chỉ là một cấu thành trong tổng phương tiện thanh toán bên cạnh đô la (ngoại tệ) và vàng hoặc chứng chỉ vàng.

Thứ hai, nếu như để ở dạng vàng vật chất thì giá trị sử dụng của nó còn bị hạn chế. Chẳng hạn, khi thực hiện giao dịch lớn thì số vàng phải vận chuyển sẽ nhiều - một yếu tố mang tính rủi ro cao. Nay, với việc hợp pháp hóa sự tồn tại của vàng vật chất thông qua chứng chỉ vàng, việc giao dịch, thanh toán, và cất trữ tài sản vàng này trong dân chúng lại trở nên thuận lợi, dễ dàng hơn bao giờ hết.

Trên nhiều phương diện, chứng chỉ vàng sẽ có giá trị và được chấp nhận rộng rãi như tiền mặt, tín phiếu, trái phiếu, séc, và các loại giấy tờ có giá khác (chí ít thì trong phạm vi ngoài hệ thống ngân hàng). Bởi vậy, chủ trương phát hành chứng chỉ vàng sẽ mang đến một tác dụng không mong muốn là làm trầm trọng thêm nạn vàng hóa.

Thứ ba, về mặt tổ chức, NHNN không thể, không có chức năng tổ chức cả một mạng lưới huy động và chi trả vàng từ tất cả các tỉnh thành xuống đến ít nhất là cấp quận, huyện. Nếu được làm, và muốn làm, NHNN sẽ phải bỏ ra một chi phí khổng lồ (và cuối cùng lại tính vào ngân sách nhà nước) để xây dựng cơ sở vật chất và nhân lực cho công việc này. Nên có nhiều khả năng là NHNN sẽ phải dựa vào hệ thống ngân hàng và đại lý ủy quyền để thực hiện việc huy động và chi trả vàng/chứng chỉ vàng.

Đương nhiên, ngoài việc vẫn phải tốn chi phí để trả cho hệ thống thu gom và chi trả vàng như thế này, NHNN còn hợp pháp hóa lại sự hiện diện của vàng trong hệ thống ngân hàng và các chân rết đại lý, là điều mà NHNN đã cố gắng chấm dứt, xóa sổ không lâu trước đây.
Thứ tư, do huy động vàng bằng chứng chỉ vàng nên vàng huy động phải được chuẩn hóa. Nhưng hiện nay, lượng vàng tiêu chuẩn đóng dấu thương hiệu do NHNN phê duyệt chỉ là một phần (nhỏ) trong tổng số vàng có trong dân.

Để việc huy động vàng đạt đến quy mô có ý nghĩa, NHNN cần phải buộc dân chúng chuyển đổi số vàng vật chất phi quy chuẩn này thành vàng quy chuẩn. Vậy những chi phí liên quan này ai sẽ gánh chịu? Nếu NHNN không trực tiếp gánh chịu thì cuối cùng NHNN (và rốt cuộc là ngân sách) cũng sẽ phải gánh chịu, nếu muốn huy động được, vì dân chúng có vàng sẽ tính hết những loại chi phí này vào lãi suất họ đòi hỏi NHNN phải đáp ứng nếu muốn “mượn” vàng của họ. Chưa kể, chuyện chuyển đổi vàng này sẽ tạo ra nhiều rủi ro, bất ổn như vốn đã từng xảy ra trước đây.

Thứ năm, khi NHNN huy động vàng, họ phải trả lãi cho số lượng vàng huy động này. Dưới góc độ là một tài sản đầu tư, người sở hữu vàng sẽ đòi hỏi một lãi suất đủ lớn để hấp dẫn họ. Nên không thể hy vọng phí tổn lên ngân sách từ kênh huy động này sẽ thấp, rẻ được.
Số vàng này, sau đó, nếu theo đúng kế hoạch, sẽ được Bộ Tài chính dùng làm tài sản thế chấp để vay nước ngoài. Cứ cho là vì đã dùng vàng làm thế chấp thì lãi suất vay nước ngoài sẽ thấp hơn là vay chỉ bằng uy tín của Chính phủ Việt Nam, nhưng lãi suất này sẽ không thể thấp hơn lãi suất cho vay các chính phủ phương Tây, đồng thời sẽ phải cộng thêm các chi phí vận chuyển, bảo quản vàng vật chất đến các kho được chỉ định làm nơi giữ tài sản bảo đảm này, cũng như các chi phí thanh lý, phòng ngừa rủi ro, nếu Chính phủ Việt Nam không đáp ứng được nghĩa vụ nợ của mình.

Với lãi suất phải trả cho người có vàng trong nước, lãi suất trả cho khoản vay nước ngoài, cộng thêm vô số chi phí liên quan như kể trên, khó có thể nói rằng Chính phủ Việt Nam sẽ có lợi hơn nếu huy động vàng trong dân để làm thế chấp vay nước ngoài, thay vì đi vay trực tiếp nước ngoài.

Chừng nào không tính được rõ ràng bằng con số cụ thể bài toán lãi suất và chi phí khi huy động vàng rồi mang đi vay nước ngoài so với khi đi vay nước ngoài trực tiếp thì chừng đó chủ trương huy động vàng này còn là vô nghĩa, hoặc sẽ là một điều có hại nếu nó được thực hiện.

Các lý do trên cho thấy cần cân nhắc hết sức thận trọng trước khi hiện thực hóa chủ trương này.

Monday, 19 January 2015

Người Thái thâu tóm thương hiệu Việt – Cần được nhìn nhận cởi mở hơn! (Bài đăng trên CafeF, 19/1/2015)

 http://cafef.vn/doanh-nghiep/nguoi-thai-thau-tom-thuong-hieu-viet-can-duoc-nhin-nhan-coi-mo-hon-20150119124105836.chn

Hiện tượng các đại gia Thái Lan mấy năm gần đây thi nhau thâu tóm (mua lại cổ phần) một loạt các doanh nghiệp lớn của Việt Nam đã làm dấy lên nhiều “tâm tư”, lo ngại thật sự trong dư luận ở Việt Nam. Cũng dễ hiểu, những doanh nghiệp này và thương hiệu của mình đều thuộc diện nổi tiếng, đi đầu trong lĩnh vực hoạt động của chúng, và thường là niềm tự hào “thương hiệu Việt” vốn còn rất ít ỏi, hiếm hoi ở Việt Nam như Prime Group, Nhựa Tiền Phong, Nhựa Bình Minh, Kinh Đô, Phở 24, Metro Việt Nam, Vinamilk, Sabeco, hay Điện máy Nguyễn Kim.

Dường như sự lo ngại pha lẫn chút ngạc nhiên, khó hiểu đến từ xuất sứ của những đại gia đi thâu tóm này. Sẽ là bình thường hơn nếu những người đi thâu tóm đến từ Mỹ, Nhật, Singapore, EU, hay thậm chí Hong Kong, Hàn Quốc, Đài Loan, vốn là nơi sản sinh những đại gia, những “con cá mập” chuyên đi “săn mồi” – thôn tính doanh nghiệp - ở những quốc gia khác, đặc biệt là các nước đang phát triển, các thị trường mới nổi.

Và cũng sẽ là bình thường hơn nếu những doanh nghiệp trong nhiều ngành nghề đa dạng, dường như chẳng có liên quan gì đến nhau này lại không bị thâu tóm và tập trung vào tay một số ít đại gia đến từ... Thái Lan.

Nhưng xét cho cùng, hiện tượng các doanh nghiệp Việt Nam bị thâu tóm bởi các đại gia Thái Lan cũng nên được coi là điều bình thường vì mấy lý do sau.

Thứ nhất, các đại gia Thái Lan này đều là tỷ phú đô la, nên đương nhiên là nếu họ thích, quan tâm và muốn thâu tóm thì họ sẽ có đủ tiềm lực (và chẳng cần phải xin phép, hỏi ý kiến ai) để thâu tóm được nhiều, và rất nhiều doanh nghiệp, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước khác, thay vì cần phải có nhiều đại gia nhỏ hơn mới thâu tóm hết được các doanh nghiệp Việt Nam này.

Vậy thì cái sự “lạ” ở đây chỉ còn là tại sao lại là doanh nghiệp ở Việt Nam mà không phải là ở các nước khác? Về điều này thì chỉ có những người trong cuộc, tức những đại gia Thái Lan này, mới có câu trả lời rõ ràng được.

Mặc dù người bên ngoài cho rằng họ “dọn đường” để chờ đón cơ hội đến từ Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) chính thức có hiệu lực năm nay, hoặc họ nhìn thấy ở Việt Nam một thị trường nhiều tiềm năng đến từ dân số đông, tăng trưởng khá, vị trí địa lý là cửa ngõ vào Lào và Campuchia.

Thứ hai, chuyện thâu tóm của các đại gia Thái Lan này (với giá cao ngất ngưởng) không chắc chắn là đúng đắn, hợp lý, có lời trong cả ngắn lẫn dài hạn.
Bản thân nhiều trong số doanh nghiệp trước khi “bán mình” cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn nên chẳng có gì có thể khẳng định được rằng khi về tay các đại gia Thái Lan, chúng sẽ lập tức lột xác hoàn toàn, ăn nên làm ra.

Vậy thì hãy coi các thương vụ thâu tóm này chỉ như mọi vụ thâu tóm, sáp nhập và hợp nhất (M&A) khác mang tính “thuận mua vừa bán”. Vì thế, không nên quan niệm rằng chuyện thâu tóm này là một mất mát, tổn thất cho phía Việt Nam.

Ngược lại, thậm chí trong nhiều trường hợp, các vụ M&A này lại là lối thoát, giải pháp khôn ngoan, là món hời với số tiền khủng thu được, của các ông chủ Việt Nam nắm giữ những doanh nghiệp này. Còn chúng ta, những người ngoài cuộc, không cần phải lo thay cho những ông chủ doanh nghiệp Việt Nam này vì họ biết rõ hơn cần phải làm gì.

Thứ ba, những doanh nghiệp và thương hiệu này sau khi bị thâu tóm thì vẫn còn đó, vẫn có xuất sứ từ Việt Nam, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, đóng góp cho nền kinh tế Việt Nam như mọi loại hình doanh nghiệp khác, và chỉ có chủ sở hữu là thay đổi (một phần hay toàn bộ).

Các ông chủ mới Thái Lan không “bê” các doanh nghiệp này về Thái Lan, hay đi nơi khác, hoặc đổi tên doanh nghiệp, tên thương hiệu vốn đã quen thuộc, gắn bó với người Việt – chính là lý do hấp dẫn họ. Nên việc thâu tóm này không thể bị quy cho cái tội là đã lấy đi hết các “niềm tự hào thương hiệu Việt”, làm suy yếu lợi ích quốc gia, và làm cho gia sản kinh tế của người Việt không còn gì. 

Ngược lại, phải nên quan niệm rằng nếu để các doanh nghiệp, các thương hiệu này lay lắt trong tay các ông chủ cũ người Việt thì chắc sẽ có một ngày các doanh nghiệp và thương hiệu này bị xóa sổ.

Thứ tư, sự thâu tóm của các đại gia Thái Lan này được gắn một cách khiên cưỡng với nguy cơ hàng hóa Thái Lan sẽ lấn át hàng trong nước, đe dọa lợi thế “sân nhà” của hàng Việt. Cần nói ngay rằng một khi các doanh nghiệp này vẫn còn hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam thì sản phẩm của chúng làm ra vẫn được đóng mác “Made in Vietnam”, do bàn tay người Việt tạo ra (và tất nhiên việc sản xuất ra chúng vẫn đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và việc làm cho Việt Nam), chứ không phải là “Made in Thailand”, mặc dù ông chủ thật sự của chúng có thể là người Thái Lan.

Nếu muốn rạch ròi hơn, thì cần chỉ ra rằng hàng Việt Nam, “Made in Vietnam” do những doanh nghiệp của các ông chủ Thái Lan này sản xuất ra sẽ chỉ gặp thách thức và bị chèn ép khi hàng “Made in Thailand” xâm nhập từ Thái Lan, qua con đường nhập khẩu, đổ bộ vào lãnh thổ Việt Nam, dẫn đến thu hẹp sản xuất và công ăn việc làm của người Việt.

Tóm lại, việc các đại gia Thái Lan (hay bất cứ nước nào khác) thâu tóm các doanh nghiệp Việt Nam cần được nhìn nhận và đón nhận một cách cởi mở hơn, coi đó là điều tất yếu trong thời đại hội nhập kinh tế.

Tăng thuế nhập khẩu xăng dầu - lợi bất cập hại (Bài đăng trên TBKTSG Online, 19/1/2015)

http://www.thesaigontimes.vn/125558/Tang-thue-nhap-khau-xang-dau---loi-bat-cap-hai.html

Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 03/2015/TT-BTC điều chỉnh tăng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với mặt hàng xăng dầu. Cụ thể, thuế nhập khẩu xăng tăng từ 27% lên 35%; dầu hỏa tăng từ 26% lên 35%; dầu mazut tăng từ 24% lên 35%; dầu diesel tăng từ 23% lên 30%.

TBKTSG đã trích dẫn Bộ Tài chính cho thấy, việc này nhằm giúp các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu chủ động xây dựng kế hoạch, phương án kinh doanh. Một lý do nữa là các mức thuế này phù hợp với mức khung thuế suất mà Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua, phù hợp với cam kết của Việt Nam trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là 0-40%.
 
Lời giải thích này của Bộ Tài chính xem ra không xác đáng, và chỉ như đưa ra cho có. Người trong cuộc, đại diện một đầu mối xăng dầu, nói với TBKTSG rằng việc tăng thuế hai lần liên tiếp trong vòng một tháng qua không giúp các doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch, phương án kinh doanh như Bộ Tài chính giải thích. Theo vị này, thuế ổn định thì mới chủ động kinh doanh.
 
Như vậy, Bộ Tài chính chỉ còn lại lý do là các mức thuế này phù hợp với khung thuế suất đã thông qua, và với cam kết của Việt Nam với WTO để biện minh cho việc tăng thuế này. Nhưng thông thường, những mức thuế nhập khẩu cam kết này có mục đích chính là để bảo vệ tối đa trong phạm vi được phép (trong mức cam kết) thị trường nội địa trước sức ép của hàng nhập khẩu. Trong những trường hợp để bảo vệ thị trường và các doanh nghiệp sản xuất trong nước như vậy, việc tăng thuế nhập khẩu (lên mức tối đa được phép) đôi khi là điều phải làm, nên làm, khi xét đến sự phát triển còn non trẻ của doanh nghiệp trong nước, sự cạnh tranh không lành mạnh của doanh nghiệp nước ngoài, hay vì một nhu cầu nào đó đáp ứng quyền lợi của cả quốc gia.
 
Tuy nhiên, xét trong ngành xăng dầu, Việt Nam là nước xuất khẩu ròng dầu thô, nhưng lại là nước nhập khẩu ròng xăng dầu thành phẩm. Nói cách khác, nâng thuế nhập khẩu xăng dầu trong trường hợp này hầu như chỉ có tác dụng (đúng hơn là tác hại) đáng kể là làm tăng giá xăng dầu trong nước, chứ không phải bảo vệ nhà sản xuất, lọc dầu trong nước (có sản phẩm tiêu thụ ở nội địa), ngoài tác dụng hiển nhiên là ngân sách sẽ được bù đắp một khoản lớn dự kiến sẽ mất đi do hụt thu thuế nhập khẩu xăng dầu (tính ở mức cũ) do giá xăng dầu tụt giảm mạnh.
 
Nếu xét đến thái độ lo lắng bấy lâu nay cho thâm hụt ngân sách từ giá xăng dầu giảm (từ nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô đến nguồn thu từ thuế nhập khẩu xăng dầu), có thể kết luận rằng thực chất việc nâng gần mức kịch trần thuế nhập khẩu xăng dầu của Bộ Tài chính nhằm mục đích chính là ngăn chặn giảm thu ngân sách từ sự sụt giảm giá dầu xăng.
Và nếu đúng như vậy, cũng có thể nói luôn mà không sợ quá lời rằng Bộ Tài chính đã có một cái nhìn ngắn hạn và vị kỷ khi sẵn sàng hy sinh quyền lợi của cả nền kinh tế đến từ hưởng thụ giá dầu thấp, chỉ cốt sao cho thu ngân sách không bị hụt đi. Bộ đã không tính toán thiệt hơn một cách khôn ngoan hơn rằng khi nền kinh tế được kích hoạt bởi giá dầu thấp, nguồn thu từ các loại thuế và giao nộp khác chảy vào ngân khố của Bộ Tài chính sẽ tăng lên, thậm chí còn lớn hơn so với khi giá dầu đứng ở mức cao như cũ. Hãy xem những dự báo của các tổ chức quốc tế về ảnh hưởng tích cực của giá dầu sụt giảm lên tăng trưởng GDP của các quốc gia và khu vực trên thế giới để hình dung mức độ cải thiện ngân sách sẽ đạt được.
 
Ngoài ra, có thể còn có một lý do khác đằng sau việc tăng thuế lần này. Đó là việc lạm phát đã giảm xuống mức thấp kỷ lục trong nhiều năm nay, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng giá, tăng phí, tăng thuế mà không sợ bị đối mặt với sự phản đối mạnh mẽ của dư luận bởi lo ngại lạm phát dâng cao.
 
Trên hết, dường như Bộ Tài chính vẫn chưa có, chưa đưa ra được một tính toán cụ thể nếu giá dầu biến động ở mức nào thì GDP và thu ngân sách sẽ biến động ở giới hạn nào đó ở mỗi một mức thuế nhập khẩu xăng dầu cụ thể, từ đó làm cơ sở cho việc tăng thuế nhập khẩu xăng dầu như hiện nay. Và tuy chưa có những tính toán cụ thể như thế, việc tăng thuế nhập khẩu xăng dầu được nhìn trước là sẽ gây sự chững lại về động lực tăng trưởng kinh tế tương tự như việc tăng thuế thu nhập lên doanh nghiệp và cá nhân hộ gia đình.
 
Trên hết, với tăng trưởng kinh tế có khả năng không đạt mức kỳ vọng cao như hiện tại từ hành động tăng thuế này, Bộ Tài chính có khả năng sẽ phải đối mặt với thâm hụt ngân sách do phải tăng chi tiêu và đầu tư chính phủ để kích tăng trưởng. Bởi vậy, có thể nói tăng thuế nhập khẩu xăng dầu là lợi bất cập hại.

Friday, 16 January 2015

Nói thêm về sáp nhập ngân hàng

Trong bài về sáp nhập ngân hàng hôm 15/1 trên CafeF (dưới đây), tớ có nghi ngờ về cái gọi là "sáp nhập tự nguyện" giữa các ngân hàng trong năm 2015 này, vì bình thường xét ra chẳng nhìn thấy động cơ gì để các ngân hàng này tự nguyện sáp nhập với nhau nếu không có một xúc tác, một lợi ích được hứa hẹn hay một sự tác động (thúc ép, bắt buộc). Nay, đọc bài này, thấy đồng chí Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã nói rất rõ:

“Vietcombank muốn trở thành ngân hàng số 1 phải tham gia quá trình sáp nhập, tái cơ cấu với Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước sẽ không để Vietcombank phải thiệt”.

Nói tóm lại, cái gì cũng chỉ nên nghe nửa tai!

Qua đây cũng biết thêm kế hoạch của NHNN có vẻ giống như tớ nói, ngân hàng thương mại nhà nước (Vietcombank, Vietinbank, BIDV) sẽ liên tục M&A với các ngân hàng khác để biến chúng thành các ngân hàng số 1 (tức đạt tầm cỡ khu vực).

Thursday, 15 January 2015

Thấy gì từ kế hoạch sáp nhập ngân hàng năm nay? (Bài đăng trên CafeF, 15/1/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/thay-gi-tu-ke-hoach-sap-nhap-ngan-hang-nam-nay-20150115150405791.chn

Trái với kỳ vọng, năm 2014 là một năm hoàn toàn tĩnh lặng trong chuyện sáp nhập, hợp nhất ngân hàng, mặc dù hồi đầu năm 2014, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã lên kế hoạch sáp nhập 6-7 ngân hàng. Sang đầu năm 2015, lại một lần nữa NHNN cho biết sẽ có 6-7 vụ sáp nhập hợp nhất ngân hàng trong năm.

Thị trường đồn đoán rằng sẽ có các cặp ngân hàng sáp nhập như sau: (1) Vietcombank-SaigonBank, (2) Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) - Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long (MHB), (3) Vietinbank- OceanBank hoặc PGBank, (4) Ngân hàng Phương Nam (Southern Bank)- Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), (5) Ngân hàng Mê Kông (MDB) - Ngân hàng Hàng Hải (Maritime Bank), (6) GPBank - LienVietPostBank. Ngoài ra, mới đây NamA Bank cũng công bố có kế hoạch nhận sáp nhập một ngân hàng phù hợp.

Trong số các ngân hàng trên, chỉ có GPBank là ngân hàng cuối cùng trong 9 ngân hàng bị NHNN xếp vào hàng yếu kém và cần phải tái cơ cấu hồi năm 2011. Như vậy, ta có thể nghĩ rằng mục đích chính của kế hoạch sáp nhập hợp nhất năm nay không phải là nhằm “cấp cứu” cho hệ thống ngân hàng bằng cách cho biến đi các ngân hàng yếu kém nhất, có khả năng đổ vỡ nhất trong toàn hệ thống, như đã từng xảy ra trong các năm trước.

Nhớ lại, trước đây NHNN cũng đã từng nêu kế hoạch đến năm 2015 sẽ có 1 hoặc 2 ngân hàng đạt đến tầm cỡ khu vực về quy mô và tính cạnh tranh. Nay, với sự xuất hiện của 3 “ông lớn” ngân hàng thương mại nhà nước là Vietcombank, Vietinbank và BIDV trong kế hoạch sáp nhập hợp nhất năm nay, câu hỏi được đặt ra là, phải chăng NHNN đã và đang tiếp tục lộ trình tham vọng biến những ngân hàng nhà nước này thành ngân hàng tầm cỡ khu vực, và đây mới là mục tiêu chính của kế hoạch sáp nhập năm 2015?

Nhưng nhìn lại đối tác sáp nhập tiềm năng của các “ông lớn” này trong năm nay thì có thể thấy chúng là những ngân hàng quy mô nhỏ, với vốn điều lệ khoảng 3.000-4.000 tỷ đồng, so với quy mô vốn lớn gấp hàng chục lần của 3 ngân hàng thương mại nhà nước. Bởi vậy, cho dù có sáp nhập xong các ngân hàng nhỏ này trong năm nay thì 3 ngân hàng thương mại nhà nước này cũng không “lớn” thêm được bao nhiêu về quy mô hay mạnh thêm đáng kể về tính cạnh tranh trong khu vực. Do đó, có thể nói rằng NHNN một lần nữa lại trễ hẹn trong kế hoạch tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của mình.

Dẫu vậy, nếu xét đến mục tiêu năm 2017 chỉ còn 20 ngân hàng thương mại trong hệ thống (có lúc thì NHNN lại đặt mục tiêu là còn 17-18 ngân hàng) thì kế hoạch sáp nhập, hợp nhất năm nay của NHNN không phải là vô ích. Nếu suôn sẻ theo đúng kế hoạch (đồn đoán) thì con số ngân hàng trong toàn hệ thống tính đến cuối năm nay sẽ giảm đi chừng 6-7 ngân hàng. Và nếu trong năm 2016-17, một số lượng ngân hàng tương tự sẽ tiếp tục được tái cơ cấu (và biến mất) thì số lượng ngân hàng còn lại trong hệ thống quả thật sẽ khá trùng khớp với mục tiêu kế hoạch của NHNN.

Ngoài ra, nếu các ngân hàng nhà nước sau sáp nhập năm nay (và các năm sau) lại tiếp tục con đường sáp nhập, hợp nhất trong những năm tới (kể cả với các ngân hàng mới hình thành sau sáp nhập, hợp nhất) thì mục tiêu hình thành các ngân hàng tầm cỡ khu vực sớm muộn gì thì cũng sẽ được hoàn thành trước năm 2020, là thời điểm hội nhập ngành ngân hàng trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).

Đến đây, một câu hỏi khác được đặt ra là, động cơ nào thúc đẩy các vụ sáp nhập, hợp nhất mà phần lớn mang tính tự nguyện, như NHNN cho biết, như trong năm 2015 này? Với lượng thông tin công bố rất hữu hạn thì có lẽ chỉ có những người trong cuộc mới cho câu trả lời chính xác. Nhưng nhìn từ ngoài vào, những vụ sáp nhập, hợp nhất thế này chỉ như một phép cộng số học thuần túy các thuộc tính của 2 ngân hàng được hợp nhất vào với nhau, và khó mà chỉ ra được hiệu quả nhân lên đến từ sự sáp nhập, hợp nhất này. Đối với các ngân hàng thương mại nhà nước, việc sáp nhập các ngân hàng nhỏ vào với chúng chỉ như can thêm một miếng vải vào một tấm áo ngắn. Còn với các ngân hàng tầm cỡ "xêm xêm" như nhau thì việc sáp nhập cũng chỉ như việc góp gạo thổi cơm chung, vì chúng ít nhiều đều có chiến lược, thị trường, mạng lưới, công nghệ, sức mạnh v.v... na ná nhau.

Như vậy, bình thường ra thì các ngân hàng này vẫn sống độc lập được, và thậm chí là sống khỏe mà không cần, không có nhu cầu sáp nhập và hợp nhất với những ngân hàng khác, kể cả ngân hàng lớn hơn, mạnh hơn chúng. Bằng chứng là chuyện đối tác sáp nhập của BIDV (MHB?) có “tâm trạng” về sự gắn bó với một thương hiệu, với quá trình đi lên của họ, tuy là một ngân hàng tuy nhỏ nhưng không yếu kém, vẫn hoạt động tốt tại các địa bàn ở đồng bằng sông Cửu long. Từ khía cạnh này, cũng sẽ là hợp lý nếu nghĩ rằng chắc chắn trong các trường hợp sáp nhập, hợp nhất năm nay đã có một chất xúc tác, hay một lợi ích được hứa hẹn, hoặc một sự tác động nào đó thúc đẩy cho các đối tác tiềm năng này đi tìm nhau, thấy nhau, và xích lại gần nhau. Đến đây thì chỉ thấy NHNN là người có thể đóng được vai này!

Saturday, 10 January 2015

Những quan niệm sai lầm về phá giá VND (Bài đăng trên CafeF, 11/1/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/nhung-quan-niem-sai-lam-ve-pha-gia-vnd-20150111104235995.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phải phá giá thêm 1% đồng Việt Nam trong một động thái, cũng giống như những lần trước, xem ra mang tính miễn cưỡng. Điều này có nguyên nhân do phá giá cho đến nay trong con mắt nhiều người vẫn là một điều hết sức có hại, cần tránh và tránh được bao lâu thì tốt bấy lâu, bất chấp áp lực phá giá đã dồn nén, làm cho tỷ giá chợ đen có mức chênh lệch lớn với tỷ giá chính thức.

Trước khi điểm lại một số sai lầm phổ biến về chuyện phá giá, cần lưu ý rằng sự phá giá nêu trong bài này không phải là sự phá giá (tăng tỷ giá chính thức) theo kiểu hủy diệt, tuyệt vọng, vài chục điểm phần trăm một lần, mà là sự điều chỉnh tăng tỷ giá ở mức độ chừng mực, một vài điểm phần trăm một lần (và mỗi lần, nếu có, cách nhau một thời gian tính bằng tháng). Mục đích của việc phá giá theo từng bước nhỏ này chủ yếu là để không gây ra sốc, hoảng loạn.

Sai lầm thứ nhất: phá giá làm gia tăng nợ nước ngoài

Điều này là sai vì nợ nước ngoài trước và sau phá giá (giả sử không vay thêm hay trả bớt đi) không thay đổi. Giả sử nếu Việt Nam vay 1 tỷ USD của các chủ nợ nước ngoài, sau khi phá giá VND, gánh nặng nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn chỉ là 1 tỷ USD, không hơn, không kém một xu. Chính xác hơn, chỉ có thể nói rằng nợ nước ngoài sẽ tăng lên sau phá giá nếu quy 1 tỷ USD này ra VND, và khi đó thì quả thật gánh nặng trả nợ tính bằng VND sẽ tăng lên tương ứng với mức độ phá giá.

Dẫu vậy, xét từ góc độ quốc gia, giả sử NHNN kiên quyết không phá giá khi áp lực phá giá đã gia tăng mạnh để bảo vệ lợi ích (tức không làm tăng gánh nợ bằng VND) của chính phủ, doanh nghiệp, và cá nhân có vay nợ bằng USD. Việc bảo vệ tỷ giá như thế này sẽ không phải là không có phí tổn, và khi đó cần phải cân nhắc thiệt hơn nếu không chịu phá giá. Nói cách khác, cho đến nay, trường phái phản đối phá giá dường như nghiễm nhiên cho rằng NHNN nếu muốn ổn định tỷ giá thì chỉ cần tuyên bố vậy là xong, là được, mà không cần phải làm gì, không phải chịu thiệt hại gì.

Để bảo vệ tỷ giá, NHNN chỉ có mấy lựa chọn chính: (1) dùng biện pháp hành chính để buộc tỷ giá phải ở mức hiện tại; (2) nâng lãi suất (giống như Nga đã và đang làm); (3) tung dự trữ ngoại hối ra để bình ổn thị trường; (4) bóp cầu USD (hạn chế nhập khẩu, không cho mang ngoại tệ ra nước ngoài v.v...); (5) ép tăng cung USD (buộc các doanh nghiệp và cá nhân có nguồn thu USD phải kết hối v.v...); (6) vay nợ thêm nước ngoài để tăng cung USD; (7) phối hợp tất cả các biện pháp này.

Dễ thấy tất cả các biện pháp trên đã từng và đang được thực hiện ở Việt Nam (và mọi nơi trên thế giới), và đều hoặc là để lại hậu quả tiêu cực (ví dụ, nâng lãi suất thì làm khó cho doanh nghiệp, bán ra USD thì làm hao hụt dự trữ ngoại hối, vay nợ thêm thì như là uống thuốc độc để chữa bệnh v.v...), hoặc là không có hiệu quả (ví dụ, dùng biện pháp hành chính sẽ dẫn đến phát triển thị trường đen, bắt kết hối thì không khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu thì vướng với các thỏa thuận tự do thương mại v.v...)

Do đó, nỗi lo lắng về tăng gánh nặng nợ quốc gia (nhưng cần nhắc lại, chỉ là tính bằng VND) tuy có thể là nỗi lo chính đáng nhưng không thể vì đó mà phải hy sinh và trả giá bằng những phí tổn khác còn lớn hơn như nói ở trên. Và ngược lại, dù có muốn can thiệp thì hãy nghĩ rằng việc dùng một phần trong số ngoại tệ mà NHNN lẽ ra phải tung ra từ quỹ dự trữ ngoại hối của mình để bình ổn tỷ giá để bán trực tiếp cho một số doanh nghiệp lựa chọn với tỷ giá ưu đãi (như cách mà Nga đang làm) giúp họ trả nợ sẽ còn có lợi hơn là NHNN bình ổn tỷ giá cho cả nền kinh tế, vì việc này, ngoài những phí tổn nói trên, còn tương tự như việc NHNN “trợ cấp”, bảo lãnh về tỷ giá cho cả nền kinh tế, xui khiến các chủ thể đi vay nước ngoài ào ào mà không cần đếm xỉa đến rủi ro tỷ giá.

Sai lầm thứ hai: phá giá không có lợi cho xuất khẩu Việt Nam vì tỷ trọng đầu vào nhập khẩu lớn.

Tương tự như sai lầm về gánh nặng nợ nước ngoài, tuy tỷ trọng đầu vào nhập khẩu trong hàng xuất khẩu của Việt Nam có lớn, nhưng cho dù có phá giá thì giá thành đầu vào nhập khẩu này vẫn không thay đổi nếu tính bằng USD; nó chỉ tăng lên khi quy ra VND. Trong khi đó, giá bán hàng xuất khẩu lại vẫn được tính bằng USD. Bởi thế chênh lệch đầu vào nhập khẩu (tính bằng USD) và giá bán đầu ra xuất khẩu (bằng USD) là không thay đổi. Ngoài ra và quan trọng hơn, khi đã phá giá, mọi chi phí phi nhập khẩu (phát sinh trong nước, ví dụ, tiền lương, điện, nước v.v...) tính theo USD lại giảm đi. Rốt cuộc, nhà sản xuất và xuất khẩu lại được lợi thêm nhờ phá giá. Đây là một kiến thức cơ bản trong ngoại thương mà không hiểu sao vẫn bị nhầm lẫn một cách hết sức phổ biến ở Việt Nam, kể cả các chuyên gia.

Sai lầm thứ ba: phá giá làm tăng lạm phát vì cái gọi là “nhập khẩu lạm phát”.

Phá giá quả thật sẽ làm tăng lạm phát nếu khối lượng nhập khẩu không suy giảm, và, do đó, tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu (với giá quy ra VND cao hơn trước khi phá giá) trong rổ hàng hóa tính CPI không thay đổi. Nhưng phá giá lại có một tác dụng tích cực mà những người phản đổi phá giá thường “quên” mất, đó là hạn chế nhập khẩu.

Hãy xem người Nga hiện đang chật vật thế nào với cuộc sống vì đồng ruble mất giá mạnh đã làm mọi thứ hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt đỏ quá tầm với của họ, buộc họ phải cắt giảm chi tiêu và/hoặc chuyển sang dùng hàng hóa trong nước. Vì thế, khi VND bị phá giá, khối lượng nhập khẩu thường bị sụt giảm ở mức tương ứng (phá giá ít thì sụt giảm ít), do đó tỷ trọng hàng nhập khẩu trong rổ hàng hóa tính CPI cũng giảm theo, bởi vậy không nhất thiết làm tăng CPI (tức lạm phát).

Như vậy, việc phá giá VND thường không dẫn đến gia tăng áp lực lạm phát như người ta lo ngại. Ngược lại, phá giá VND rõ ràng sẽ có tác dụng cải thiện cán cân thương mại cho Việt Nam vì đã góp phần hạn chế nhập khẩu.

Sai lầm thứ tư: ổn định tỷ giá (VND lên giá thực) không làm tăng nhập siêu, do đó không cần phá giá.

Bất chấp lý thuyết và thực tế về ngoại thương liên quan đến phá giá chỉ ra lợi ích phá giá như nói ở trên, nhiều người lại chứng minh một cách ngụy biện rằng dù tỷ giá VND khá ổn định trong 2 năm qua (mặc dù VND lên giá thực so với USD do chênh lệch lạm phát lớn giữa Mỹ và Việt Nam, và, do đó, theo lý thuyết, sẽ dẫn đến nhập siêu) nhưng Việt Nam vẫn xuất siêu; điều đó chứng tỏ ổn định tỷ giá mới là tốt, hoặc không cần phá giá.

Quả là có nhiều tháng trong 2 năm qua Việt Nam đã có xuất siêu. Nhưng phải đặt ngược lại vấn đề rằng, nếu Việt Nam duy trì một tỷ giá cao hơn (VND yếu hơn) thì xuất siêu sẽ ở mức lớn hơn nữa. Trên hết, những người lập luận như trên sẽ giải thích thế nào trước hiện tượng Việt Nam quay trở lại trạng thái nhập siêu từ quý 4 năm 2014 (mặc dù VND chỉ bị phá giá nhẹ trong cả năm 2014 và không bị phá giá trong quý 4), và nhập siêu được dự tính ở mức lớn nhiều tỷ USD trong năm 2015 này? Quan trọn g hơn, người ta sẽ giải thích thế nào với thực tế rằng các nước nào có nhập siêu đều tìm cách phá giá bản tệ của mình để cải thiện tình trạng này?

Sai lầm thứ năm: phá giá làm suy giảm lòng tin nhà đầu tư nước ngoài.

Như đã nói, khi đã có áp lực phá giá VND mà NHNN không muốn phá giá thì buộc phải thực thi một số biện pháp ở trên, mà đều là những biện pháp gây ra tác dụng phụ hoặc không có hiệu quả. Vậy, cho dù có muốn cưỡng lại thì việc phá giá chỉ còn là vấn đề thời gian. Hơn nữa, NHNN có tiềm lực đến đâu để cưỡng lại được thị trường? Có tiềm lực mạnh như Nga với trên 500 tỷ USD dự trữ ngoại hối và các doanh nghiệp xuất khẩu đẻ trứng vàng với nguồn ngoại tệ dồi dào mà rốt cuộc vẫn phải đứng nhìn đồng ruble mất giá nặng nề. Cho dù không có sự trừng phạt và cấm vận của phương Tây, chỉ riêng việc dùng quỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp vào tỷ giá đã làm nước này tổn hại hơn 100 tỷ USD chỉ trong vài tuần, để rồi vẫn buộc phải buông tay cho tỷ giá tăng vọt.

Do đó, nhà đầu tư nước ngoài hiểu được điều này, hiểu được tính ngắn hạn của những biện pháp can thiệp bình ổn tỷ giá, nếu có, của NHNN, và biết được điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Trong bối cảnh đó, việc NHNN khăng khăng tuyên bố không phá giá, không cần phá giá, có đủ nguồn lực để ổn định tỷ giá v.v... để rồi cuối cùng cũng phải phá giá sẽ chỉ càng làm cho uy tín của NHNN và niềm tin của nhà đầu tư bị sứt mẻ.

Tóm lại, về tỷ giá, bài học rút ra là muốn không phá giá thì đừng để áp lực phá giá gia tăng (do, ví dụ, thi hành một chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức, làm lạm phát tăng, VND lên giá thực lớn); và khi đã để áp lực phá giá đã gia tăng đủ lớn thì tốt nhất là hãy phá giá ở thế chủ động, với những bước nhỏ và ở thời điểm bất ngờ, chứ đừng “quyết liệt” nói không với phá giá để đến lúc tình thế tuột khỏi tầm kiểm soát, buộc phải buông tay để VND rơi tự do.

Friday, 9 January 2015

Tăng tỷ giá là điều tất yếu (Bài đăng trên CafeF, 9/1/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/tang-ty-gia-la-dieu-tat-yeu-201501090723350737ca34.chn

Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã quyết định điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam và USD tăng thêm 1% – lần điều chỉnh đầu tiên trong vòng 6 tháng.Với biên độ điều chỉnh + 1%, tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng USD mới là 21.458 VND/USD.
Trước đó, tỷ giá bình quân liên ngân hàng được duy trì trong suốt một thời gian dài ở mức 21.246 VND/USD, một mức xem ra được hình thành mà không dựa trên bất cứ cái gì ngoài ý muốn chủ quan của NHNN, đơn giản vì nó luôn ở mức này, bất kể thị trường trồi sụt thế nào (có lẽ nó chỉ có chức năng như một mốc tham chiếu để hình thành biên độ biến động giá trần và sàn theo định hướng).

Trong khi đó, tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng được duy trì ở mức cao hơn, nhưng cũng lại gây sự chú ý khi gần như đi ngang, thành một đường thẳng, ở mức sát trần cho phép, bất chấp thực tế là tỷ giá thị trường tự do đã vọt lên mức cao hơn nhiều (ở mức trên 21.600). Điều này làm người ta buộc phải nghi ngờ rằng tỷ giá niêm yết đó cũng chỉ để cho có, chứ còn việc mua và bán USD trên thực tế hoặc là không diễn ra (người có USD không muốn bán, người cần USD lại không mua được với tỷ giá bị khống chế này), hoặc là lại dựa vào một tỷ giá thỏa thuận ngầm gần sát với tỷ giá trên thị trường tự do.

Bởi vậy, đợt tăng tỷ giá mới này là điều tất yếu và tích cực, phản ánh gần sát hơn cán cân cung cầu trên thị trường ngoại hối đang nghiêng về phía cầu. Điều đáng nói còn lại chỉ là thời điểm và mức độ.

Về thời điểm, tại sao NHNN lại chọn thời điểm ngay đầu năm này để phá giá, trong khi mới trước đó không lâu, quan điểm ổn định tỷ giá (thậm chí là không cần phá giá) vẫn thắng thế, và tỷ giá biến động nhỏ còn được ca ngợi là một thành công, một điểm sáng trong điều hành của NHNN?

Lý do đầu tiên có thể nghĩ đến là chuyện thành tích. NHNN rõ ràng đã thấy áp lực phải phá giá hơn nữa sau đợt phá giá 1% hồi tháng 6/2014, đặc biệt là trong quý 4, với tỷ giá đã nhiều lần áp sát và kịch mức trần. Nhưng trước đó, do NHNN luôn khẳng định không có lý do gì để phá giá, không cần phá giá, với hàng loạt dữ liệu cụ thể minh chứng rất hùng hồn cho lập trường của mình, nên một đợt phá giá mới, dù là nhỏ, sẽ là điều có hại cho uy tín của, cho lòng tin vào NHNN, làm tiêu tan thành tích “ổn định vĩ mô” của họ. 

Do đó, lựa chọn thời điểm sang năm mới, sau khi đã rào trước đón sau rằng năm 2015 cũng có thể phá giá, là một lựa chọn khá khôn ngoan của NHNN, khi vừa kịp thời giải tỏa được một phần áp lực phá giá đang tăng cao, vừa tiếp tục cho thị trường thấy rằng họ vẫn đang đi đúng, thực hiện đúng định hướng của mình đề ra từ đầu (không phá giá quá 2% trong năm 2014).

Lý do thứ hai có thể có đằng sau đợt tăng tỷ giá lần này là diễn biến bất ngờ về tỷ giá của các ngoại tệ mạnh trên thị trường ngoại hối quốc tế. Đồng USD đã đột ngột mạnh lên đáng kể so với các đồng tiền chủ chốt khác trong thời gian gần đây do nền kinh tế Mỹ tiếp tục khởi sắc ngoài dự đoán trong khi châu Âu và Nhật tiếp tục tăng trưởng trì trệ và buộc phải (cân nhắc) dùng đến các gói kích thích, nới lỏng tiền tệ của ngân hàng trung ương. 

Trong bối cảnh USD mạnh lên đáng kể như vậy, việc neo tỷ giá VND vào USD rõ ràng là một việc làm dại dột vì làm ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của Việt Nam, trong khi các nước khác đều hoặc là chủ động phá giá bản tệ (để bản tệ yếu đi so với USD), hoặc là chấp nhận để bản tệ bị phá giá. Trên ý nghĩa này, việc phá giá VND thêm một lần nữa cho thấy là việc tất yếu và tích cực.

Hai lý do trên và bản thân việc phá giá lần này cũng cho thấy những căn cứ mà NHNN cũng như của nhiều người đưa ra để chứng minh rằng không cần phải phá giá, phá giá không có lợi, không có lý do gì để phá giá v.v... thực ra chẳng có giá trị gì, hoặc không xác đáng, không đúng vấn đề.

Về mức độ phá giá 1%, có thể thấy đây là một bước đi mang tính thận trọng, để đảm bảo nó không gây ra một cơn hoảng loạn như đã từng xảy ra vài năm trước đây khi NHNN phá giá tới 9%. Mức độ này cũng là hợp lý nếu xét đến định hướng phá giá của NHNN không quá 2% trong năm nay.

Nhưng cũng ngay ở định hướng phá giá không quá 2% này ta có thể thấy một bất ổn lớn ở đây. NHNN đã tự trói mình bằng cái định hướng và định mức phá giá này. Ngay đầu năm đã dùng hết 1% trong room cho phép phá giá là 2%, vậy điều gì làm NHNN có thể chắc chắn và tự tin khẳng định rằng từ nay đến cuối năm (hơn 11 tháng nữa!), nếu có phải phá giá thì họ cũng sẽ chỉ cần phá không quá thêm 1% nữa là đủ để lập lại cân bằng cung cầu USD và ổn định tỷ giá?

Do đó, như người viết đã đề cập đến đôi lần, trong bối cảnh nhiều bất trắc, nhiều biến cố không thể dự đoán được, một lập trường chính sách tỷ giá khôn ngoan phải là một lập trường có lối thoát, không để thị trường dự đoán được và đi trước chính sách tỷ giá của NHNN. Xét trên khía cạnh này, việc bất ngờ phá giá ngay từ đầu năm này là điều đáng hoan nghênh khi nó tạo bất ngờ cho thị trường, tránh được đầu cơ nhưng cũng đồng thời tránh được hoảng loạn. 

Nhưng điều cần tránh lặp lại, và cần sửa sai ngay sau đây là NHNN bằng cách nào đó rút lại hoặc làm nhẹ đi cái định hướng không phá giá quá 2% nói trên, chỉ để ngỏ cho thị trường thấy rằng NHNN sẵn sàng điều chỉnh linh hoạt tỷ giá theo biến động của thị trường và các cân đối vĩ mô khác (và không đưa ra bất cứ định hướng nào bằng con số, như cách làm của các ngân hàng trung ương khác trên thế giới).

Saturday, 3 January 2015

Thận trọng với đề xuất cho thanh toán sử dụng NDT ở Việt Nam (Bài đăng trên CafeF, 4/1/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/than-trong-voi-de-xuat-cho-thanh-toan-su-dung-ndt-o-viet-nam-201501041033522101ca34.chn

Hiệp hội doanh nghiệp Trung quốc tại Việt Nam, Ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC) đã kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cho thanh toán đồng Nhân dân tệ (NDT) trực tiếp ở Việt Nam.

Theo kiến nghị này, nhu cầu giao địch thanh toán bằng NDT tại Việt Nam là khá lớn và tăng lên rõ rệt theo đà phát triển không ngừng của thương mại Việt - Trung. Tại thị trường biên mậu Việt - Trung, cuối năm 2013, ước tính kim ngạch thanh toán bằng NDT đã đạt khoảng 15 tỷ USD. Tuy nhiên, kiến nghị cho biết, hiện phương thức lưu thông NDT chưa được pháp luật Việt Nam quy định. Đa số giao dịch thanh toán biên mậu bằng NDT nói trên được thực hiện ở Việt Nam thông qua con đường không chính ngạch. Vì vậy, nếu thị trường thanh toán NDT từ biên giới được mở rộng đưa vào nội địa Việt Nam và được các ngân hàng thực hiện theo con đường chính ngạch, thì NHNN có thể quản lý giám sát nguồn vốn này một cách có hiệu quả. Đồng thời có thể tăng cường đóng góp trong việc thu thuế cũng như công tác phòng, chống rửa tiền.

Cũng theo kiến nghị này, hiện tại đã có ngân hàng của Việt Nam thực hiện nghiệp vụ đổi NDT-VND nhưng chưa có ngân hàng Trung Quốc được thực hiện nghiệp vụ này. Bởi vậy, nếu đồng tiền thanh toán thương mại từ USD... được thay bằng NDT, đây chỉ là sự thay thế về đồng tiền thanh toán mà không ảnh hưởng gì đến tình hình xuất siêu hay nhập siêu. Do đó,những tổ chức trên kiến nghị rằng NHNN mở rộng phạm vi sử dụng NDT tại Việt Nam hơn ở mức độ hợp lý, đồng ý cho ICBC thực hiện hợp tác về nghiệp vụ NDT với các ngân hàng thương mại Việt Nam (như BIDV) hiện đang thực hiện nghiệp vụ NDT.

Về các nội dung kiến nghị nói trên, ta có thể thấy như sau.

Thứ nhất, về mặt pháp lý, NHNN đã có Quyết định số 11/VBHN-NHNN ngày 21/5/2014 về việc ban hành quy chế thanh toán trong mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ tại khu vực biên giới và khu kinh tế cửa khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc. Theo đó, kiến nghị trên là không chính xác khi nói “phương thức lưu thông NDT chưa được pháp luật Việt Nam quy định”. Với quy định này thì không phải là “pháp luật Việt Nam chưa có quy định” (về phương thức lưu thông NDT), mà chính xác ra thì pháp luật Việt Nam đã có quy định cụ thể chỉ cho phép lưu thông NDT một cách hạn chế trên lãnh thổ Việt Nam.

Do đó, chuyện đa phần trong số 15 tỷ USD kim ngạch thanh toán biên mậu bằng NDT nêu trên được thực hiện thông qua con đường không chính ngạch là do (một số) lý do khác nào đó chứ không phải là do pháp luật Việt Nam chưa có quy định về lưu thông NDT. Nói cách khác, sẽ là không xác đáng khi các tổ chức trên vin vào lý do nếu cho phép NDT (tự do) lưu thông trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam (ngoài khu vực biên giới và khu kinh tế cửa khẩu với Trung Quốc) thì NHNN sẽ hạn chế được việc thanh toán biên mậu không chính ngạch nói riêng, và/hoặc quản lý giám sát được một cách hiệu quả việc thanh toán biên mậu nói chung.

Thứ hai, việc không cho phép ngân hàng thương mại Trung Quốc được hợp tác về nghiệp vụ NDT với các ngân hàng thương mại Việt Nam, hoặc, ở mức độ lớn hơn, trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ về NDT tương tự như các ngân hàng Việt Nam có nghiệp vụ này sẽ chỉ “có hại” trên giác độ là các ngân hàng thương mại Việt Nam được độc quyền trong, và không phải phải chia sẻ miếng bánh lợi nhuận thu được từ các hoạt động nghiệp vụ liên quan đến NDT cho các ngân hàng Trung Quốc. Ngoài “tác hại” này, việc không cho phép như thế sẽ không làm phương hại gì đến quan hệ biên mậu cũng như việc thanh toán biên mậu như kiến nghị trên ngụ ý đến.

Về phía Việt Nam, có thể có lý do công khai hoặc ngầm định nào đó (cũng có thể có cả lý do chính trị) cho việc không cho phép ngân hàng nước ngoài nói chung (chứ không phải nêu đích danh ngân hàng của Trung Quốc, như trong Quyết định 11 nói trên) thực hiện các nghiệp vụ NDT. Bởi vậy, có thể xét chuyện này thuộc vấn đề chủ quyền và quyền lợi quốc gia, nên... miễn tranh luận. Còn nếu thực sự phía Trung Quốc phản đối chuyện đối xử không công bằng, muốn thúc đẩy quan hệ biên mậu nói riêng và thương mại nói chung giữa 2 nước thì pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn cho phép họ thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ liên quan đến các ngoại tệ tự do chuyển đổi như USD hay Yen mà các ngân hàng thương mại Việt Nam đang được phép thực hiện.

Thứ ba, lập luận rằng “nếu đồng tiền thanh toán thương mại từ USD... được thay bằng NDT, đây chỉ là sự thay thế về đồng tiền thanh toán mà không ảnh hưởng gì đến tình hình xuất siêu hay nhập siêu” cũng không hoàn toàn đúng, nếu xét một cách chi li. Việc sử dụng một đồng tiền không có tính tự do chuyển đổi nào đó như NDT (hiện tại vẫn là đồng tiền không được hoàn toàn tự do chuyển đổi) nhằm mục đích chính là tạo thuận lợi hơn và thúc đẩy thương mại song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam.
 
Nhưng nếu xét đến tương quan lợi ích của thương gia Trung Quốc và Việt Nam thì có thể nói rằng việc dùng NDT làm phương tiện thanh toán chủ yếu sẽ là có lợi cho thương gia Trung Quốc hơn là Việt Nam.

Với thương gia Trung Quốc, dùng NDT, họ không chịu rủi ro biến động tỉ giá cũng như các loại phí liên quan đến chuyển đổi tiền tệ như trong trường hợp dùng USD hoặc một đồng tiền tự do chuyển đổi nào khác. Ngược lại, thương gia Việt Nam vẫn phải chịu rủi ro biến động tỉ giá, cụ thể là VND/NDT, cũng như các loại chi phí tiền tệ liên quan, chưa kể đến việc nếu phải lựa chọn giữa nguồn thu bằng USD với nguồn thu bằng NDT thì chắc chắn nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ chọn USD vì đồng tiền này đem lại cho họ nhiều lựa chọn, nhiều lợi ích hơn, xuất phát từ khả năng tự do chuyển đổi của nó. Xét trên bình diện cả quốc gia cũng vậy, việc phải nhận và/hoặc nắm giữ một khối lượng quá lớn NDT không có tính tự do chuyển đổi, thay vì một ngoại tệ mạnh nào đó như USD, sẽ là bất lợi và rủi ro lớn cho Việt Nam khi những trường hợp xấu xảy ra (ví dụ khi quan hệ 2 nước xấu đi).

Ngoài ra, thương mại song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam thường xuyên có kết quả là nhập siêu quá lớn, gây bất lợi cho Việt Nam, nhất là nhìn từ khía cạnh chính trị và lợi ích quốc gia. Bởi vậy, trên giác độ nào đó, việc hạn chế việc thanh toán thương mại song phương dùng NDT có tác dụng như một rào cản thương mại phi thuế quan nhằm hạn chế nhập khẩu và nhập siêu từ Trung Quốc (nếu phía Trung Quốc ưa thích dùng NDT hơn).

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).