Theo dự luật Quản lý nợ công hiện tại thì sẽ có đến 3 cơ quan cùng tham
gia quản lý nợ công là Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước
(NHNN). Đây là điều mà nhiều người không đồng tình, vì cho rằng khi quản lý
phân tán giữa nhiều đầu mối thì sẽ khó xác định được con số thực của nợ công.
Việc có đến 3 đầu mối cùng quản lý nợ công như thế này cũng không phù hợp với
yêu cầu của Bộ Chính trị là phải bảo đảm tập trung thống nhất trong quản lý nợ
công nhằm sớm khắc phục tình trạng quản lý nợ công còn chồng chéo, chưa gắn
trách nhiệm cân đối ngân sách, vay và trả nợ với phân bổ, sử dụng vốn. Việc quy
về một đầu mối còn không những giảm được biên chế, thủ tục hành chính, phiền hà
mà còn giúp cho đàm phán nợ công thuận lợi hơn.
Một số ý kiến
còn cho rằng thông lệ trên thế giới là quy định rõ một đầu mối quản lý tập
trung, thống nhất nguồn lực nợ công. Thậm chí, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim
Ngân còn cho rằng việc một người đi đàm phán, một người phân bổ số nợ vay, một
người đi trả nợ là bất hợp lý, và khẳng định: “chẳng quốc gia nào giống như
chúng ta”.
Ngược lại,
cũng có không ít ý kiến ủng hộ dự luật, và cho rằng quy định như dự luật sẽ
không làm xáo trộn chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành. Ví dụ, NHNN đã và
đang làm tốt vai trò chủ trì đàm phán với Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng
Phát triển Châu Á nên sẽ là thuận lợi hơn nếu để NHNN tiếp tục chủ trì đàm
phán, ký kết vay với các tổ chức này. Đồng thời, việc có 3 cơ quan cùng quản lý
sẽ tạo ra cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực lẫn nhau, hạn chế độc quyền.
Bên cạnh đó,
có ý kiến cho biết: “Nếu soi
chiếu kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là các quy định của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
hay WB thì cũng không có một mô hình mẫu nào về quản lý nợ công. Tùy theo thể
chế, các quốc gia có thể giao một hoặc nhiều bộ, ngành khác nhau quản lý nợ
công. Do đó việc tham khảo quốc tế là cần thiết nhưng cần có sự linh hoạt,
không cứng nhắc”.
Không có mô hình mẫu trên thế giới
Trước tiên, cần
tán đồng với ý kiến rằng không có một mô hình mẫu nào về quản lý nợ công trên
thế giới, kể cả khi soi chiếu các quy định của IMF hay WB. Điều này có nghĩa là
vẫn có nhiều nước đang có một cơ chế quản lý nợ công phân tán giống như Việt
Nam.
Trong bản chỉ
dẫn về quản lý nợ công (sau đây gọi là Bản chỉ dẫn), phiên bản sửa đổi năm 2014
được soạn thảo bởi IMF và WB (1) có nêu rõ rằng thực tế cho thấy có nhiều lựa
chọn về đầu mối (cơ quan quản lý chức năng) trong việc phân bổ chức năng quản
lý nợ công, gồm một hoặc nhiều hơn trong số những đầu mối sau: Bộ Tài chính,
Ngân hàng Trung ương (NHTW), hay một cơ quan quản lý nợ công (DMO) độc lập.
Một nghiên cứu
của IMF về quản lý nợ công ở các nước thuộc nhóm OECD trong cuối thập kỷ 80 đến
thập kỷ 90 cũng cho thấy các nước này mô hình thể chế về quản lý nợ công rất
khác nhau. Trong khi một số nước thành lập cơ quan quản lý nợ công độc lập
(SDMO) thì một số nước khác lại không thấy có nhu cầu tại sao phải tách rời các
SDMO này với Bộ Tài chính. (2)
Quan trọng là minh bạch, phối hợp và chịu
trách nhiệm
Trở lại với
hai luồng ý kiến ủng hộ và phản đối dự luật nêu trên, có thể thấy luồng ý kiến
phản đối việc để cả 3 đầu mối cùng quản lý nợ công là chưa có cơ sở chắc chắn,
ngoài chuyện nêu không chính xác về kinh nghiệm của thế giới. Sẽ là không có gì
đảm bảo rằng việc tập trung về một mối sẽ tự khắc dẫn đến giảm biên chế, tăng
hiệu quả. Bởi cũng từ kinh nghiệm thực tiễn ở Việt Nam cho thấy việc sáp nhập,
hợp nhất các cơ quan quản lý chỉ làm giảm số lượng đầu mối chứ thực ra không
làm giảm được mấy nhân sự và vị trí (quản lý).
Việc cho rằng quy
về một đầu mối sẽ tránh được tình trạng chồng chéo, chưa gắn trách nhiệm cân đối
ngân sách, vay và trả nợ với phân bổ, sử dụng vốn… cũng không nhất thiết là
đúng, vì ngay đến chính sách “một cửa” cũng còn lắm vấn đề để nói. Nếu trong bản
thân đầu mối thống nhất này có một bộ máy phức tạp, nhập nhằng chức năng, nhiệm
vụ thì rốt cuộc mọi thứ vẫn cứ rối tinh lên, vẫn kém hiệu quả, dễ lạm quyền.
Ngay cả về lợi
ích đàm phán nợ công thuận lợi hơn khi tập trung về một đầu mối cũng không nhất
thiết sẽ xảy ra nếu người đàm phán không phối hợp hữu hiệu với các cơ quan chức
năng khác như NHNN và Bộ Tài chính để căn cứ vào tình hình và bối cảnh vĩ mô,
chính sách tiền tệ, hối đoái… mà có chiến lược đàm phán phù hợp.
Cũng chính từ
những cơ sở không chắc chắn nói trên, điều quan trọng rút ra được cho mô hình
quản lý nợ công ở Việt Nam là các “từ khóa” sau: Phối hợp, minh bạch, và chịu
trách nhiệm. Nói cách khác, phân tách thành 3 đầu mối hay hợp nhất thành một đầu
mối duy nhất không quan trọng bằng việc cần thiết phải đảm bảo thực hiện tốt những
yêu cầu này.
Về yêu cầu phối
hợp tốt, Bản chỉ dẫn nêu rõ các cơ quan liên đới như DMO (cơ quan quản lý nợ
công), Bộ Tài chính và NHTW phải cùng hiểu biết chung và chia sẻ về mục tiêu quản
lý nợ công và các chính sách tài khóa, tiền tệ, do có sự liên kết chéo và phụ
thuộc lẫn nhau trong các công cụ chính sách của các cơ quan này. Chẳng hạn, DMO
và Bộ Tài chính cần phải chia sẻ thông tin về nhu cầu luồng tiền cho ngân sách
hiện tại và tương lai; NHTW cần phải thông báo cho Bộ Tài chính về các tác động
có thể có của mức nợ công lên việc đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Việc phối hợp này phải được đặt trong bối cảnh đảm bảo môi trường vĩ mô lành mạnh.
Cũng cần lưu ý
rằng việc phối hợp này không có nghĩa là NHTW tạo điều kiện cung cấp tín dụng
lãi suất thấp cho Chính phủ bằng cách thi hành chính sách tiền tệ nới lỏng bất
cẩn với lý do là hỗ trợ ngân sách, vì đây không phải là sứ mệnh của NHTW. Bởi vậy,
chức năng và mục tiêu quản lý nợ công cần được tách bạch khỏi chức năng và mục
tiêu của chính sách tiền tệ.
Về yêu cầu
minh bạch và gắn trách nhiệm, Bản chỉ dẫn nêu rằng cần phân bổ trách nhiệm một
cách rõ ràng giữa Bộ Tài chính, NHTW, hay SDMO (cơ quan quản lý nợ công độc lập)
trong công tác quản lý nợ công. Bên cạnh đó, các mục tiêu của quản lý nợ công
cũng cần được quy định rõ ràng và được công bố minh bạch. Tương tự như vậy là
các hoạt động quản lý nợ công, thông qua báo cáo thường niên và báo cáo định kỳ
ra công chúng… Quan trọng không kém, các hoạt động quản lý nợ công, gồm cả quy
trình quản lý rủi ro và hệ thống thông tin cần được kiểm toán hàng năm bởi tổ
chức kiểm toán độc lập để đảm bảo trách nhiệm giải trình trong các hoạt động của
này của cơ quan liên đới.
Tóm lại, Việt
Nam vẫn có thể duy trì cơ chế 3 bên cùng quản lý nợ công như hiện tại, nhưng phải
đảm bảo rằng không có sự thỏa hiệp hay xung đột về lợi ích và sứ mệnh, có sự gắn
và giải trình trách nhiệm rõ ràng, minh bạch, và cùng phải hướng đến mục tiêu
chung là duy trì môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh.
-----------(1) https://www.imf.org/en/Publications/Policy-Papers/Issues/2016/12/31/Revised-Guidelines-for-Public-Debt-Management-PP4855
(2)http://treasury.worldbank.org/bdm/pdf/6_Institutional_Arrangements_PDM_CurrieDethierTogo.pdf
No comments:
Post a Comment