Sunday 4 March 2018

Luẩn quẩn hồi sinh các dự án “đắp chiếu” (Bài đăng trên TBKTSG, 4/3/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/269481/Luan-quan-hoi-sinh-cac-du-an-dap-chieu.html

Nhà máy Đạm Ninh Bình, một trong 12 dự án ngàn tỉ thua lỗ, “đắp chiếu” của Bộ Công Thương mới đây đã được hồi sinh và đi vào hoạt động theo phương án xử lý các dự án thua lỗ mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt tháng 10-2017.

Tuy nhiên, căn cứ vào những thông tin sơ bộ mà ban giám đốc nhà máy cũng như lãnh đạo Bộ Công Thương cho biết thì có thể thấy sự hồi sinh và hoạt động của nhà máy cũng chỉ tương tự như việc duy trì sự sống của một bệnh nhân bằng các ống truyền dẫn oxy và dinh dưỡng mà nếu rút ra thì bệnh nhân sẽ không thể tự thở, tự sống được.

Cụ thể, giá bán đạm urê của nhà máy hiện là 6-6,3 triệu đồng/tấn, chỉ cao hơn chi phí biến đổi, là những khoản chi phí thay đổi theo quy mô sản xuất hoặc doanh số, khoảng 0,5 triệu đồng/tấn (tức là chỉ cao hơn khoảng 9% chi phí biến đổi)(1). Lưu ý thêm rằng để hòa vốn thì ngoài chi phí biến đổi, còn cần phải tính thêm vào đó chi phí cố định phân bổ trên một đơn vị sản phẩm bán ra, gồm các loại chi phí như tiền thuê đất, thuế tài sản, bảo hiểm, trả lãi và gốc vay (ví dụ như các khoản đầu tư ban đầu), khấu hao tài sản cố định, tiền lương nhân viên và cán bộ quản lý, chi phí quảng cáo, đào tạo... Nếu cộng đủ tất cả các loại phí cố định này (dù có cắt giảm những hạng mục như quảng cáo, đào tạo) thì chắc là nhà máy hoạt động khó có hiệu quả, dù ở đây chúng ta không thể tính toán bài toán lỗ lãi một cách chi tiết vì không có số liệu.

Đó là chưa kể là nhà máy lại phải tiếp tục phụ thuộc hoàn toàn vào tiền vay khách hàng và ngân hàng để có nguồn vốn lưu động mua vật tư và chi trả các khoản “đặng chẳng đừng” như đại tu một số bộ phận dây chuyền, máy móc (mới hoạt động sao đã đại tu?). Theo ban giám đốc, nhà máy cần vay 350 tỉ đồng để duy trì sản xuất. Nếu giả sử có ngân hàng nào đó, dưới áp lực của các cơ quan chức năng, chấp nhận mạo hiểm cho nhà máy vay số tiền này thì tiền trả lãi vay sẽ càng làm tăng gánh nặng tài chính.


Trong bối cảnh triển vọng mờ mịt của nhà máy, Bộ Công Thương vẫn hạ quyết tâm không để nhà máy ngừng hoạt động(2). Lý do được đưa ra chủ yếu là những yếu tố phi thị trường như sợ làm tổn thương truyền thống tự hào của cán bộ, công nhân viên, của ngành công thương, của người dân, của lãnh đạo tỉnh Ninh Bình...
Tuy nhiên, giải pháp (nhiệm vụ) mà Bộ Công Thương chỉ ra cho nhà máy thực hiện chủ yếu chỉ là giải pháp khắc phục các tồn tại về mặt kỹ thuật như phải làm chủ công nghệ, vận hành an toàn, tránh để xảy ra sự cố như sự cố đóng máy kỹ thuật trước Tết (tức là cho đến thời điểm này vẫn chưa làm chủ được công nghệ và vận hành thông suốt?), hướng tới nâng phụ tải công suất lên trên 80%...
Việc tập trung vào giải pháp kỹ thuật, nâng sản lượng tuy sẽ giúp hạ giá thành sản xuất (chủ yếu do hạ chi phí cố định tính trên một đơn vị sản phẩm) nhưng chắc chắn vẫn không thể giúp nhà máy thoát được tình trạng khó khăn, bởi chỉ riêng phí biến đổi đã chiếm trên 90% giá bán, và ngay cả Bộ Công Thương cũng phải chỉ ra rằng giá thành khi vận hành từ than đến đạm chỉ lãi khoảng 400.000-500.000 đồng/tấn urê, chưa trừ các chi phí như lãi suất ngân hàng, nhân công... tức là một con số quá nhỏ, quá mong manh, tương tự như khi so sánh giữa giá bán với chi phí cố định và biến đổi phân tích ở trên.
Ngoài ra, cũng phải lưu ý rằng để làm chủ công nghệ, hoạt động trơn tru thì nhà máy vẫn phải tiêu tốn thêm nhiều tiền để đại tu, thay máy móc mới, thiết bị và đào tạo nhân công... như một phần trong gói vay vốn 350 tỉ đồng mà nhà máy đang đề nghị Bộ Công Thương “có ý kiến hỗ trợ” nêu trên. Như vậy, phương án xử lý, phục hồi nhà máy này vẫn vấp phải vòng luẩn quẩn chi phí và hiệu quả sản xuất.
Để phá vỡ vòng luẩn quẩn này thì cần thiết Chính phủ phải tiếp tục rót vốn (lưu động) hoặc bảo lãnh vay vốn cho nhà máy với hy vọng mong manh rằng nhà máy sau đó sẽ tự đứng vững và duy trì sản xuất được (chưa tính đến chuyện có lãi và trả được nợ vay lãi và gốc). Nhưng mặt khác, Chính phủ đã có chủ trương không dùng ngân sách để xử lý các dự án thua lỗ này, cũng như Bộ Công Thương đã nhấn mạnh rằng nhà máy “phải tự cứu mình”. Như vậy, quả bóng nay lại nằm trong chân của ban giám đốc Nhà máy Đạm Ninh Bình, ít nhất là trên danh nghĩa, trong khi giải pháp khả thi duy nhất mà ban giám đốc này có thể nghĩ ra và đề xuất là phải có tiền (tiếp tục được vay vốn).
Sự “bùng nhùng” nói trên một lần nữa cho thấy việc xử lý các dự án thua lỗ, “đắp chiếu” không nên, không chỉ dừng lại ở việc dùng nỗ lực với “quyết tâm chính trị” để làm vực dậy những “xác sống” vốn đã sai (và trở nên tệ hại hơn bởi nạn tham nhũng) ngay từ khâu thiết kế đến xây dựng và vận hành, không thể tồn tại một cách bình thường và lành mạnh trong môi trường cạnh tranh của kinh tế thị trường. Để tránh khả năng những “xác sống” này tiếp tục hút cạn nguồn lực của nhà nước thì phải dũng cảm xóa bỏ chúng nếu cần thiết.
(1) https://laodong.vn/kinh-te/de-nghi-vay-them-350-ty-dong-de-cuu-nha-may-dam-ninh-binh-592313.ldo
(2) https://laodong.vn/kinh-te/bo-truong-cong-thuong-nha-may-dam-ninh-binh-hay-tu-cuu-minh-592335.ldo

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).