Saturday, 3 March 2018

Một số kinh nghiệm cá nhân về chuyện đăng bài báo khoa học (Bài đăng trên TBKTSG, 3/3/2018, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/td/269596/Mot-so-kinh-nghiem-ca-nhan-ve-chuyen-dang-bai-bao-khoa-hoc.html


Không phải cho hiện nay mà đã từ lâu dư luận nhiều phen dậy sóng về chuyện làm khoa học và xuất bản các bài báo, công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp chí khoa học nước ngoài của một số cá nhân ở Việt Nam. Ngoài những vấn đề như đạo văn, còn nổi lên vấn đề xuất bản trên các tạp chí “ngụy” khoa học – không có trong những cơ sở dữ liệu về các tạp chí khoa học có uy tín (ví dụ Scopus) hoặc có nhưng sau đó đã bị loại bỏ vì bị phát hiện là tạp chí “ngụy” khoa học.
Từ kinh nghiệm bản thân là một người đã có một số bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế nghiêm túc trong thời gian vài năm làm nghiên cứu sinh Tiến sỹ và giảng dạy chính thức tại một trường đại học bên Nhật, cũng như một người đã và đang được mời làm thành viên ban biên tập hoặc người đọc phản biện kín cho một số tạp chí khoa học trong và ngoài nước, tôi muốn góp đôi lời xung quanh chuyện đăng bài trên tạp chí khoa học.

Trước tiên, như đã nói, là một người đã từng xuất bản các bài nghiên cứu trên các tạp chí khoa học nghiêm túc nên tôi rất thấu hiểu những khó khăn để bài nghiên cứu của mình cũng như  của các tác giả khác được đăng trên các tạp chí khoa học, nhất là những người đang làm công tác nghiên cứu, giảng dậy ở Việt Nam, không ít trong số đó gặp trở ngại lớn do trình độ tiếng Anh có hạn. Bởi vậy, mỗi khi đọc được một thông tin liên quan đến  một nhà nghiên cứu khoa học nào đó trong nước đã xuất bản được một bài trên tạp chí khoa học quốc tế nào đó (nhất là trong lĩnh vực kinh tế như của tôi), tôi thường cố gắng tìm đọc với thái độ trân trọng xen lẫn khâm phục.
Cách đây chừng một năm, nhân một dịp đang phải tìm thông tin liên quan đến ngành sữa của Việt Nam để phục vụ cho công việc chuyên môn tại nơi làm việc ở Singapore, tôi tìm được link dẫn đến lý lịch khoa học của một vị Tiến sỹ hiện đang là Phó Giáo sư, Phó trưởng Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế tại một trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết đã xuất bản một vài bài nghiên cứu trên tạp chí khoa học nước ngoài, và anh còn là giáo sư thỉnh giảng của các đại học tại Mỹ, Nhật. Rất ấn tượng với những thành tích này, tôi lần tìm đọc các bài nghiên cứu của anh trên các tạp chí nước ngoài, gồm tạp chí “International Journal of Managing Value and Supply Chains”, “Journal of Globalization Studies”, “Journal of Sustainability Science and Management”, và “Economic Annals”.

Các tạp chí trên, căn cứ vào thông tin có trên trang chủ, cái thì có trụ sở tại Nga, cái ở Ukraina, cái ở Malaysia và có cái thì như là “công dân toàn cầu” vì không thấy có thông tin liên quan. Cũng có cái được giới thiệu là có trong các cơ sở dữ liệu như Scopus, nhưng cũng có cái chẳng thấy có bất kỳ thông tin liên quan nào. Hầu hết tất cả các tạp chí này đều được giới thiệu là tạp chí có phản biện, người đọc tiếp cận và đọc bài miễn phí. Có tạp chí thì nêu rõ tác giả có bài đăng thì phải nộp 120 USD lệ phí xuất bản, mặc dù không cần phải tốn tiền để nộp bài.
Ngoài nội dung rất đáng bị phê phán vì hầu như không có những phát hiện và đóng góp mới, có giá trị về học thuật, với lối hành văn như của một phóng viên đưa tin thời sự hàng ngày, điều quan trọng mà một người đọc có trình độ tiếng Anh kha khá và từng “viết lách”, có thể phát hiện ra ngay từ những bài nghiên cứu của tác giả này là tiếng Anh cũng như cách trình bày vấn đề của anh có rất nhiều “sạn”. Tôi thậm chí có thể đoán được đoạn nào anh trích dẫn, “mượn” của người khác, đoạn nào là của anh, căn cứ vào sự khác biệt về chất lượng tiếng Anh và văn phong của những đoạn này.

Có nhiều người sẽ cho rằng ngôn ngữ không phải là chuyện quan trọng, miễn là chuyển tải được ý muốn của người viết. Nhưng, ít nhất với tôi, chuyện ngôn ngữ có nhiều “sạn” thể hiện trên một tạp chí lại nói lên tất cả về chất lượng và sự nghiêm túc cũng như giá trị của tạp chí đó.
Một vấn đề liên quan khác mà nhiều người ở Việt Nam hay viện dẫn như là một trở ngại để xuất bản được các nghiên cứu của mình trên tạp chí quốc tế là vấn đề chi phí. Quả thật, như nêu ở trên, có nhiều tạp chí yêu cầu người nộp bài phải trả phí nộp bài và/hoặc phí xuất bản. Nhưng cần lưu ý rằng có rất nhiều tạp chí nghiêm túc, có tiếng tăm không yêu cầu người viết phải nộp bất cứ thứ lệ phí nào để có bài được xuất bản. Và cũng chính vì muốn tiết kiệm ngân sách là một trong những lý do tôi đã chủ trương tìm đến các tạp chí loại này để xuất bản các bài nghiên cứu của mình. 

Rồi nữa, nhiều người cũng lấy lý do là nghiên cứu khoa học thì sẽ tốn kém để biện minh cho việc không xuất bản được trên các tạp chí quốc tế. Nhưng ít nhất với tôi, trong lĩnh vực kinh tế, một vài nghiên cứu được tiến hành khi còn là nghiên cứu sinh mà chẳng hề tốn kém gì, đòi hỏi phương tiện gì ngoài sách, tạp chí ở thư viện của trường, điều mà hiện nay nhiều trường đại học và cơ sở nghiên cứu của Việt Nam hoàn toàn đáp ứng tốt.
Với những góp nhặt vụn vặt từ kinh nghiệm bản thân nói trên, tôi cho rằng cần phải rất thận trọng khi đánh giá thành tích nghiên cứu của các cá nhân kể cả khi họ có bài đăng trên tạp chí bằng ngoại ngữ, kể cả khi tạp chí đó xuất hiện trong các cơ sở dữ liệu tra cứu khoa học phổ biến trên thế giới. Nhiều trong số những tạp chí này đáng bị gọi là “ngụy” khoa học. Nói cách khác, không nên phiến diện khi cho rằng chỉ cần có bài đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có trích dẫn là đủ để xét duyệt và công nhận một cá nhân trong một vấn đề nào đó liên quan đến khoa học. Ngoài ra, việc nghiên cứu và xuất bản công trình khoa học ra quốc tế là một việc không đơn giản nhưng không  phải là một việc khó hay không thể nếu chỉ xét từ góc độ chi phí “làm” khoa học.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).