Wednesday, 9 May 2018

Nợ công, bội chi và rủi ro vẫn gia tăng (Bài đăng trên TBKTSG, 9/5/2018, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/272078/no-cong-boi-chi-va-rui-ro-van-gia-tang-.html

Thủ tướng Chính phủ vừa ký quyết định phê duyệt kế hoạch vay, trả nợ của Chính phủ năm 2018. Theo đó, năm nay Chính phủ sẽ vay 384 nghìn tỉ đồng, trong đó vay trong nước là 276 nghìn tỉ, còn lại là vay nước ngoài.


Kế hoạch vay và trả nợ của Chính phủ qua các năm
(Nghìn tỷ đồng)
2014
2015
2016
2017
2018
Nguồn vay
463
436
452
342
384
% thay đổi so với năm trước
--
-5,8%
3,7%
-24,3%
12,3%
Vay trong nước
367
400
336
243
276
Vay nước ngoài (gồm ODA, vay ưu đãi...)
96
36
99
99
108
Khác (trái phiếu ngoại tệ…)
Không rõ
Không rõ
17
Không rõ
Không rõ
Sử dụng vốn vay
367
436
452
342
384
Bù đắp bội chi
197
226
254
172
195
Trả nợ gốc (đảo nợ)
70
125
95
144
147
Cho vay lại
Không rõ
Không rõ
43
26
42
Đầu tư (từ vốn trái phiếu)
100
85
60
Không rõ
Không rõ
Kế hoạch trả nợ
209
Không rõ
273
260
257 (275)
Nợ trực tiếp của Chính phủ
Không rõ
Không rõ
154
243
238 (257)
Nợ dự án cho vay lại
Không rõ
Không rõ
24
17
19
Đảo nợ
Không rõ
Không rõ
95
Không rõ
Không rõ
Ghi chú: Số liệu các năm trước năm 2018 lấy từ www.thesaigontimes.vn/159899/Thay-gi-tu-ke-hoach-vay-va-tra-no-cua-Chinh-phu.html


Nợ công, bội chi và rủi ro vẫn đang gia tăng
Theo bảng trên, con số vay nợ của năm nay sẽ tăng tới 12,3% so với con số vay nợ tương ứng trong năm 2017 là 342 nghìn tỉ đồng. Tốc độ tăng này có khả năng sẽ vượt so với tốc độ tăng GDP danh nghĩa của Việt Nam năm nay nên có thể suy ra rằng tỷ lệ nợ công/GDP năm nay sẽ tăng trở lại, nhất là trong bối cảnh con số trả nợ theo kế hoạch năm nay lại nhỏ hơn năm trước (nếu là 257 tỉ đồng trong năm 2018, so với con số 260 tỉ đồng năm 2017; xem giải  thích ở phần dưới).

Về nguồn vay, kế hoạch sẽ là vay 276 nghìn tỷ từ các nguồn trong nước, chiếm 72% tổng vay nợ năm nay, tăng nhẹ so với năm 2017 (71%). Tuy nhiên, so với những năm trước đây thì tỷ lệ vay trong nước trong hai năm qua đang ở mức thấp nhất. Đây là một vấn đề cần tiếp tục được cải thiện để giảm thiểu rủi ro đối mặt bởi nợ công khi phải phụ thuộc nhiều vào vay nợ nước ngoài, đặc biệt khi lãi suất vay nợ thương mại trên thế giới đang có chiều hướng gia tăng.

Về sử dụng vốn vay, năm nay dự định dùng 195 nghìn tỉ đồng để bù đắp bội chi, tăng 13,4% so với năm 2017 (172 nghìn tỷ đồng). Nếu các điều kiện khác không thay đổi, khi phải tăng bù đắp bội chi thì có nghĩa là bội chi tiếp tục phình ra. Vì mức tăng bù đắp bội chi 13,4% này chắc chắn sẽ lớn hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa năm nay nên đây là một chỉ báo nữa cho thấy tỷ lệ bội chi ngân sách/GDP và cùng với đó là tỷ lệ nợ công/GDP năm nay sẽ tăng trở lại sau khi sụt giảm mạnh trong năm 2017.

Đáng chú ý là khoản vay về để cho vay lại năm nay lại tăng mạnh lên 42 nghỉn tỷ đồng so với 26 nghìn tỷ đồng năm 2017. Vì vay để cho vay lại về bản chất cũng không khác gì Nhà nước bảo lãnh các khoản vay cho doanh nghiệp (nhà nước) và địa phương nên đây cũng là một lĩnh vực rủi ro, cần hạn chế. Do đó, việc gia tăng vay để cho vay lại năm nay là một diễn biến đi ngược chiến lược kiểm soát an toàn nợ công của Việt Nam.

Về trả nợ, Chính phủ dự định năm nay trả 257 nghìn tỉ đồng nợ, trong đó trả nợ trực tiếp của Chính phủ cũng đúng bằng 257 nghìn tỉ đồng. Lưu ý rằng trả nợ các dự án cho vay lại dự định sẽ là 19 nghìn tỉ đồng. Như vậy, đây có thể là một “lỗi đánh máy”, bởi nếu đã có khoản trả nợ các dự án cho vay lại (19 nghìn tỉ đồng) thì hoặc là trả nợ trực tiếp của Chính phủ sẽ chỉ còn là 257 – 19 = 238 nghìn tỉ đồng, hoặc là tổng giá trị trả nợ năm nay phải là 257 + 19 = 275 nghìn tỉ đồng. Chính phủ cần phải cải chính, làm rõ chi tiết này. Tuy nhiên, vì nợ công vẫn đang gia tăng nếu tính theo giá trị tuyệt đối nên có nhiều khả năng con số kế hoạch trả nợ năm nay sẽ phải là 275 nghìn tỉ, để phản ánh đúng mức nợ gốc và lãi đang gia tăng.

Tính gộp GDP của nền kinh tế ngầm là vô nghĩa

Nhìn trên góc độ rộng hơn, bất chấp năm qua việc cổ phần hóa và thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà nước đã đem về cho ngân sách một khoản thu lớn lên đến nhiều tỉ đô la Mỹ (hàng trăm nghìn tỉ đồng) nhưng kế hoạch vay và trả nợ của Chính phủ cho thấy tình hình ngân sách tiếp tục thêm căng thẳng, bội chi ngân sách/GDP có xu hướng gia tăng trở lại trong năm nay (trở đi). Đây là điều hiển nhiên và dễ hiểu khi nguồn thu từ cổ phần hóa và thoái vốn chỉ là nhất thời, trong khi chi tiêu ngân sách ngày càng phình to.

Do đó, trong bối cảnh nợ công đã tiến sát ngưỡng trần cho phép ở Việt Nam, nên cũng là dễ hiểu khi Chính phủ muốn áp dụng những giải pháp khá là cực đoan như tính gộp GDP của nền kinh tế ngầm vào GDP của nền kinh tế chính thức nhằm làm cho tỷ lệ nợ công/GDP hay tỷ lệ bội chi ngân sách/GDP trở nên “đẹp” hơn, an toàn hơn, hoặc làm tăng dư địa để vay mượn nhiều hơn.

Giải pháp trên không những chỉ là liệu pháp tinh thần mà còn không có ý nghĩa ở chỗ là nó đi ngược lại thông lệ thế giới, là điều mà Chính phủ rất hay viện dẫn để biện minh cho một kế hoạch hành động nào đó tạo bất lợi cho dân, ví dụ như tăng thuế.

Cụ thể hơn, một số nghiên cứu quốc tế đã đưa ra một vài ngưỡng an toàn nợ công tính chung cho thế giới (trong số này có những nghiên cứu điển hình, rất có ảnh hưởng, nhưng sau này bị phát hiện là sai lầm). Dựa trên những nghiên cứu này, một số nước đưa ra một ngưỡng nợ công an toàn cho mình. Điều cần lưu ý là ngưỡng nợ công này được tính trên GDP của khu vực kinh tế chính thức, không bao gồm GDP của khu vực kinh tế ngầm.

Vì vậy, nếu theo đúng cách mà Việt Nam đang muốn thực hiện là tính gộp cả GDP của khu vực kinh tế ngầm vào khu vực kinh tế chính thức thì ngưỡng nợ công an toàn trên thế giới (nếu có) sẽ phải, theo logic, nhỏ hơn ngưỡng an toàn hiện tại. Để dễ hiểu hơn, giả sử quy mô nền kinh tế ngầm của thế giới tương đương với 30% nền kinh tế chính thức, và nếu ngưỡng nợ công an toàn chung cho thế giới được xác định là 65% GDP của khu vực kinh tế chính thức (bằng với ngưỡng nợ công ở Việt Nam), thì ngưỡng mới về an toàn nợ công trên thế giới (và, do đó, của Việt Nam) sẽ giảm xuống còn 50%/GDP (gộp).

Nói cách khác, dù có tính gộp GDP của khu vực kinh tế ngầm với khu vực kinh tế chính thức thì sự gia tăng mức vay nợ ở Việt Nam cũng sẽ không được cải thiện tương ứng như kỳ vọng của Chính phủ.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).