Tuesday, 15 May 2018

Quản lý nhà nước trong ngành ngân hàng: Sao cho phát triển bền vững? (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 14/5/2018, bản gốc)

https://doanhnhansaigon.vn/tai-chinh-chung-khoan/quan-ly-nha-nuoc-trong-nganh-ngan-hang-sao-cho-phat-trien-ben-vung-1085525.html

Sự phát triển của khu vực tài chính, ngân hàng được xác định là một trong những yếu tố then chốt cho sự phát triển kinh tế. Đồng thời, cả lý thuyết và thực tế đều cho thấy tăng trưởng tín dụng quá nhanh thường gây ra tổn thương mang tính hệ thống và khủng hoảng kinh tế. Do đó, nhà nước cần thiết phải đóng một vai trò thiết yếu trong việc thúc đẩy sự phát triển sâu của ngành tài chính, ngân hàng, nhưng đồng thời bảo đảm ngăn chặn hữu hiệu những cơn sốt nóng trong ngành để không dẫn đến đổ vỡ và khủng hoảng.
Trước hết, nhà nước có vai trò không thể thiếu trong việc chế tài và giám sát để đảm bảo ngành ngân hàng hoạt động ổn định và lành mạnh trong phạm vi các chuẩn mực an toàn. Sự can thiệp của nhà nước sẽ giúp làm giảm các khiếm khuyết của thị trường như: (a) hành vi chống cạnh tranh, (b) gian lận thị trường, (c) thông tin bất đối xứng, và (d) bất ổn có tính hệ thống. Những khiếm khuyết này sẽ làm hạn chế công năng đóng góp tích cực của các thị trường tài chính cho nền kinh tế, đòi hỏi nhà nước phải can thiệp nếu chi phí là nhỏ hơn lợi ích thu được.
Hai khiếm khuyết (a) và (b) cần phải được khắc phục bằng các quy chế về thị trường của nhà nước nhằm thúc đẩy phân bổ vốn trong nền kinh tế một cách hiệu quả và đảm bảo các chủ thể của thị trường hoạt động một cách liêm chính, đồng thời các quyết định kinh doanh được đưa ra dựa trên thông tin minh bạch, đầy đủ.
Hai khiếm khuyết còn lại thì cần xử lý bằng các quy chế về giám sát phòng ngừa, bởi thông tín bất đối xứng làm tăng rủi ro bất ổn cho hệ thống khi, ví dụ, người mua các sản phẩm tài chính của ngân hàng không nắm được chất lượng của sản phẩm này, dễ dẫn đến thua lỗ, mất mát, phá sản, từ đây lại sẽ dẫn đến bất ổn hệ thống khi tỷ lệ nợ xấu tăng vọt có thể là do người mua sản phẩm tài chính của ngân hàng bằng vốn vay của ngân hàng khác. Quy chế giám sát phòng ngừa sẽ buộc các ngân hàng phải minh bạch thông tin về tình hình hoạt động của để khách hàng có cơ sở cho quyết định đầu tư của mình.
Đối chiếu với tình hình ở Việt Nam, có thể thấy một số việc cần phải được thực hiện như: (i) nhanh chóng bãi bỏ trần lãi suất, bởi đây chính là một cản trở cho việc thúc đẩy cạnh tranh giữa các ngân hàng, tùy theo khẩu vị rủi ro, cơ cấu chi phí, và khả năng chịu đựng của họ; (ii) Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần sớm công bố tình hình và phân loại sức khỏe của các ngân hàng (đây là điều chưa thực hiện được mặc dù đã có quy định pháp luật về việc này); (iii) mở cửa hơn nữa cho sự tham gia của ngân hàng nước ngoài, đặc biệt nhân khi trong hệ thống đang có một số lượng không nhỏ ngân hàng yếu kém, phải tái cơ cấu. Sự tham gia của ngân hàng ngoại sẽ mang đến vốn mới, công nghệ và sản phẩm mới, khuyến khích sự cạnh tranh của ngân hàng nội; và (iv) NHNN cần kiên quyết và có chế tài mạnh mẽ buộc các ngân hàng thực hiện đúng lộ trình và đảm bảo tuân thủ chỉ tiêu về an toàn vốn tối thiểu nhằm giảm thiểu bất ổn hệ thống. Cần lưu ý rằng thế giới hiện nay đã tiến đến tiêu chuẩn an toàn vốn Basel III trong khi ngành ngân hàng Việt Nam vẫn loay hoay với lộ trình đáp ứng tiêu chuẩn của Basel II đến tận năm 2020 mà cũng không chắc đã đạt được mục tiêu với nhiều ngân hàng.
Tuy nhiên, trong công tác quản lý, giám sát phòng ngừa rủi ro của nhà nước cần giảm thiểu những chính sách ngắn hạn (thay đổi, điều chỉnh hàng năm, ví dụ như quy định về tỷ lệ sử dụng vốn huy động ngắn hạn cho vay dài hạn), xung đột và mâu thuẫn (chẳng hạn quy định của NHNN về mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán), và thiếu vắng các khuyến khích và cả chế tài để các ngân hàng thực thi nghiêm túc các quy định luật pháp (chẳng hạn NHNN thỉnh thoảng vẫn gửi văn bản nhắc nhở các ngân hàng hạn chế cho vay bất động sản. Thay vì là nhắc nhở nên không có mấy tác dụng, lẽ ra NHNN nên một mặt quy định sẽ phạt nặng ngân hàng nào vi phạm khi bị phát hiện ra, mặt khác cần khuyến khích các ngân hàng chủ động tuân thủ việc này bằng, ví dụ, cho phép thực hiện cho vay nhà ở xã hội, với nguồn vốn ưu đãi…).
Một vai trò quan trọng khác của nhà nước đối với sự phát triển của hệ thống ngân hàng là sự can thiệp và xử lý các ngân hàng có vấn đề. Kinh nghiệm rút ra từ các cuộc khủng hoảng tài chính cho thấy một trong những nguồn gốc gây ra khủng hoảng là chuyện “ngân hàng quá lớn để cho phá sản”. Hay, nói cách khác, sự dùng dằng, không dám cho một ngân hàng nào đó đóng cửa bởi cơ quan chức năng đã châm ngòi cho các cuộc khủng hoảng, xáo động trong hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến trái chiều, cho rằng đóng cửa, phá sản của ngân hàng sẽ tạo ra khủng hoảng hệ thống khi người gửi tiền đổ xô rút tiền từ ngân hàng có vấn đề. Nhưng một chính sách ngăn ngừa ngân hàng phá sản chắc chắn sẽ tạo ra rủi ro đạo đức cho cả phía giới chủ và quản lý ngân hàng, và phía người gửi tiền. Giới chủ, quản lý ngân hàng thì trở nên vô trách nhiệm với các quyết định tài chính của mình, đồng thời cũng không nỗ lực quản trị ngân hàng theo hướng an toàn, bền vững vì tin rằng Chính phủ sẽ cứu trợ, không để ngân hàng đổ vỡ. Phía người gửi tiền thì không quan tâm đến uy tín và tình hình hoạt động của ngân hàng miễn là chào mời lãi suất hấp dẫn vì tin rằng ngân hàng không thể bị đóng cửa. Bởi vậy, cơ quan chức năng cần sẵn sàng để cho ngân hàng đóng cửa, phá sản nếu thấy đây là một giải pháp tốt hơn.
Ngoài ra, viễn cảnh khi nhà nước sẵn sàng để cho ngân hàng yếu kém nào đó ra đi và mở cửa cho các ngân hàng mới thành lập cũng làm gia tăng áp lực cạnh tranh lên các ngân hàng, buộc chúng phải nỗ lực cung cấp các sản phẩm tài chính tốt với giá dễ chịu, đồng thời hạn chế khả năng thâu tóm thị trường của một vài ngân hàng làm giảm mức độ cạnh tranh.
Theo hướng này, rất may là Việt Nam gần đây đã có chuyển biến nhận thức, đã đề cập đến sự phá sản trong quá trình tái cơ cấu ngân hàng, thay vì khẳng định không để ngân hàng phá sản như trước đây. Tuy nhiên, điều đáng nói là nhận thức mới này vẫn còn chưa dứt khoát khi sự phá sản này kèm điều kiện là “giải pháp cuối cùng” sau khi các biện pháp tái cơ cấu khác đã thực hiện không có kết quả. Nếu cứ phải tuân thủ theo đúng lộ trình tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém như vậy thì e rằng sẽ là quá muộn khi lần lượt các biện pháp tái cơ cấu được thử nghiệm và thất bại để rồi mới đi đến kết luận là phải cho phá sản ngân hàng. Lúc đó thì các hậu quả phát sinh để lại cho hệ thống và toàn nền kinh tế có thể sẽ lớn hơn nhiều nếu cơ quan chức năng chủ động xác định được mức độ yếu kém và chọn giải pháp phá sản.
Tiếp theo, nhà nước cần chuẩn bị sẵn sàng các kịch bản đối phó khi một ngân hàng nào đó bị cho phá sản. Lúc này, nhn có vai trò then chốt trong việc ổn định lòng tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng, duy trì hoạt động bình thường của hệ thống, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, giảm thiểu gánh nặng ngân sách dùng để cứu trợ hệ thống ngân hàng…
Tuy Việt Nam đã có một số kinh nghiệm trong vấn đề trên, nhưng trước mắt cần điều chỉnh ngay mức bảo hiểm tiền gửi lên cao hơn từ mức rất thấp như hiện nay là tối đa 75 triệu đồng, để người gửi tiền, nhất là những người có nhiều tiền gửi, tạm yên tâm với tài sản của mình phó thác cho các ngân hàng, tránh khả năng vì quá lo sợ, bất an nên họ rút tiền ra đầu tư vào những lĩnh vực khác.
Cơ quan chức năng cũng cần thường xuyên đánh giá tác động tiềm năng của một ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng có quy mô lớn, lên toàn bộ hệ thống và cả nền kinh tế mỗi khi ngân hàng này có vấn đề. Làm được như vậy, mỗi khi ngân hàng mục tiêu này gặp rắc rối, tùy theo mức độ trầm trọng của vấn đề, cơ quan chức năng có thể nhanh chóng đưa ra giải pháp xử lý thích hợp, bao gồm sát nhập/mua lại giữa các ngân hàng (trong và ngoài nước) với nhau hoặc với một phần tiền từ ngân sách…, nhằm bảo đảm tính ổn định của hệ thống ngân hàng.
Song song với những giải pháp liên quan đến số phận các ngân hàng yếu kém, cơ quan chức năng cần sẵn sàng, chủ động đưa ra kế hoạch tái cơ cấu và phục hồi các ngân hàng lớn có vấn đề nhưng có khả năng phục hồi. Mặc dù đây không phải là chuyện mới với Việt Nam, nhưng những lỗ hổng trong các vụ tái cơ cấu ngân hàng yếu kém gồm Ngân hàng Xây dựng dẫn đến việc truy tố một số cán bộ NHNN gần đây cho thấy còn rất nhiều việc phải làm trong công cuộc tái cơ cấu và phục hồi ngân hàng yếu kém ở Việt Nam.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).