Sự phát triển của
khu vực tài chính, ngân hàng được xác định là một trong những yếu tố then chốt
cho sự phát triển kinh tế. Đồng thời, cả lý thuyết và thực tế đều cho thấy tăng
trưởng tín dụng quá nhanh thường gây ra tổn thương mang tính hệ thống và khủng hoảng
kinh tế. Do đó, nhà nước cần thiết phải đóng một vai trò thiết yếu trong việc thúc
đẩy sự phát triển sâu của ngành tài chính, ngân hàng, nhưng đồng thời bảo đảm
ngăn chặn hữu hiệu những cơn sốt nóng trong ngành để không dẫn đến đổ vỡ và khủng
hoảng.
Trước hết, nhà nước
có vai trò không thể thiếu trong việc chế tài và giám sát để đảm bảo ngành ngân
hàng hoạt động ổn định và lành mạnh trong phạm vi các chuẩn mực an toàn. Sự can
thiệp của nhà nước sẽ giúp làm giảm các khiếm khuyết của thị trường như: (a)
hành vi chống cạnh tranh, (b) gian lận thị trường, (c) thông tin bất đối xứng,
và (d) bất ổn có tính hệ thống. Những khiếm khuyết này sẽ làm hạn chế công năng
đóng góp tích cực của các thị trường tài chính cho nền kinh tế, đòi hỏi nhà nước
phải can thiệp nếu chi phí là nhỏ hơn lợi ích thu được.
Hai khiếm khuyết
(a) và (b) cần phải được khắc phục bằng các quy chế về thị trường của nhà nước
nhằm thúc đẩy phân bổ vốn trong nền kinh tế một cách hiệu quả và đảm bảo các chủ
thể của thị trường hoạt động một cách liêm chính, đồng thời các quyết định kinh
doanh được đưa ra dựa trên thông tin minh bạch, đầy đủ.
Hai khiếm khuyết
còn lại thì cần xử lý bằng các quy chế về giám sát phòng ngừa, bởi thông tín bất
đối xứng làm tăng rủi ro bất ổn cho hệ thống khi, ví dụ, người mua các sản phẩm
tài chính của ngân hàng không nắm được chất lượng của sản phẩm này, dễ dẫn đến
thua lỗ, mất mát, phá sản, từ đây lại sẽ dẫn đến bất ổn hệ thống khi tỷ lệ nợ xấu
tăng vọt có thể là do người mua sản phẩm tài chính của ngân hàng bằng vốn vay của
ngân hàng khác. Quy chế giám sát phòng ngừa sẽ buộc các ngân hàng phải minh bạch
thông tin về tình hình hoạt động của để khách hàng có cơ sở cho quyết định đầu
tư của mình.
Đối chiếu với
tình hình ở Việt Nam, có thể thấy một số việc cần phải được thực hiện như: (i) nhanh
chóng bãi bỏ trần lãi suất, bởi đây chính là một cản trở cho việc thúc đẩy cạnh
tranh giữa các ngân hàng, tùy theo khẩu vị rủi ro, cơ cấu chi phí, và khả năng
chịu đựng của họ; (ii) Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần sớm công bố tình hình và
phân loại sức khỏe của các ngân hàng (đây là điều chưa thực hiện được mặc dù đã
có quy định pháp luật về việc này); (iii) mở cửa hơn nữa cho sự tham gia của
ngân hàng nước ngoài, đặc biệt nhân khi trong hệ thống đang có một số lượng
không nhỏ ngân hàng yếu kém, phải tái cơ cấu. Sự tham gia của ngân hàng ngoại sẽ
mang đến vốn mới, công nghệ và sản phẩm mới, khuyến khích sự cạnh tranh của
ngân hàng nội; và (iv) NHNN cần kiên quyết và có chế tài mạnh mẽ buộc các ngân
hàng thực hiện đúng lộ trình và đảm bảo tuân thủ chỉ tiêu về an toàn vốn tối
thiểu nhằm giảm thiểu bất ổn hệ thống. Cần lưu ý rằng thế giới hiện nay đã tiến
đến tiêu chuẩn an toàn vốn Basel III trong khi ngành ngân hàng Việt Nam vẫn
loay hoay với lộ trình đáp ứng tiêu chuẩn của Basel II đến tận năm 2020 mà cũng
không chắc đã đạt được mục tiêu với nhiều ngân hàng.
Tuy nhiên, trong
công tác quản lý, giám sát phòng ngừa rủi ro của nhà nước cần giảm thiểu những
chính sách ngắn hạn (thay đổi, điều chỉnh hàng năm, ví dụ như quy định về tỷ lệ
sử dụng vốn huy động ngắn hạn cho vay dài hạn), xung đột và mâu thuẫn (chẳng hạn
quy định của NHNN về mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán), và thiếu vắng các khuyến khích và cả chế tài để các ngân hàng
thực thi nghiêm túc các quy định luật pháp (chẳng hạn NHNN thỉnh thoảng vẫn gửi
văn bản nhắc nhở các ngân hàng hạn chế cho vay bất động sản. Thay vì là nhắc nhở
nên không có mấy tác dụng, lẽ ra NHNN nên một mặt quy định sẽ phạt nặng ngân
hàng nào vi phạm khi bị phát hiện ra, mặt khác cần khuyến khích các ngân hàng
chủ động tuân thủ việc này bằng, ví dụ, cho phép thực hiện cho vay nhà ở xã hội,
với nguồn vốn ưu đãi…).
Một vai trò quan
trọng khác của nhà nước đối với sự phát triển của hệ thống ngân hàng là sự can
thiệp và xử lý các ngân hàng có vấn đề. Kinh nghiệm rút ra từ các cuộc khủng hoảng
tài chính cho thấy một trong những nguồn gốc gây ra khủng hoảng là chuyện “ngân
hàng quá lớn để cho phá sản”. Hay, nói cách khác, sự dùng dằng, không dám cho một
ngân hàng nào đó đóng cửa bởi cơ quan chức năng đã châm ngòi cho các cuộc khủng
hoảng, xáo động trong hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, cũng
có nhiều ý kiến trái chiều, cho rằng đóng cửa, phá sản của ngân hàng sẽ tạo ra
khủng hoảng hệ thống khi người gửi tiền đổ xô rút tiền từ ngân hàng có vấn đề.
Nhưng một chính sách ngăn ngừa ngân hàng phá sản chắc chắn sẽ tạo ra rủi ro đạo
đức cho cả phía giới chủ và quản lý ngân hàng, và phía người gửi tiền. Giới chủ,
quản lý ngân hàng thì trở nên vô trách nhiệm với các quyết định tài chính của
mình, đồng thời cũng không nỗ lực quản trị ngân hàng theo hướng an toàn, bền vững
vì tin rằng Chính phủ sẽ cứu trợ, không để ngân hàng đổ vỡ. Phía người gửi tiền
thì không quan tâm đến uy tín và tình hình hoạt động của ngân hàng miễn là chào
mời lãi suất hấp dẫn vì tin rằng ngân hàng không thể bị đóng cửa. Bởi vậy, cơ
quan chức năng cần sẵn sàng để cho ngân hàng đóng cửa, phá sản nếu thấy đây là
một giải pháp tốt hơn.
Ngoài ra, viễn cảnh
khi nhà nước sẵn sàng để cho ngân hàng yếu kém nào đó ra đi và mở cửa cho các
ngân hàng mới thành lập cũng làm gia tăng áp lực cạnh tranh lên các ngân hàng,
buộc chúng phải nỗ lực cung cấp các sản phẩm tài chính tốt với giá dễ chịu, đồng
thời hạn chế khả năng thâu tóm thị trường của một vài ngân hàng làm giảm mức độ
cạnh tranh.
Theo hướng này, rất
may là Việt Nam gần đây đã có chuyển biến nhận thức, đã đề cập đến sự phá sản
trong quá trình tái cơ cấu ngân hàng, thay vì khẳng định không để ngân hàng phá
sản như trước đây. Tuy nhiên, điều đáng nói là nhận thức mới này vẫn còn chưa dứt
khoát khi sự phá sản này kèm điều kiện là “giải pháp cuối cùng” sau khi các biện
pháp tái cơ cấu khác đã thực hiện không có kết quả. Nếu cứ phải tuân thủ theo
đúng lộ trình tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém như vậy thì e rằng sẽ là quá muộn
khi lần lượt các biện pháp tái cơ cấu được thử nghiệm và thất bại để rồi mới đi
đến kết luận là phải cho phá sản ngân hàng. Lúc đó thì các hậu quả phát sinh để
lại cho hệ thống và toàn nền kinh tế có thể sẽ lớn hơn nhiều nếu cơ quan chức
năng chủ động xác định được mức độ yếu kém và chọn giải pháp phá sản.
Tiếp theo, nhà nước
cần chuẩn bị sẵn sàng các kịch bản đối phó khi một ngân hàng nào đó bị cho phá
sản. Lúc này, nhn có vai trò then chốt trong việc ổn định lòng tin của dân
chúng vào hệ thống ngân hàng, duy trì hoạt động bình thường của hệ thống, bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền, giảm thiểu gánh nặng ngân sách dùng để cứu trợ hệ
thống ngân hàng…
Tuy Việt Nam đã
có một số kinh nghiệm trong vấn đề trên, nhưng trước mắt cần điều chỉnh ngay mức
bảo hiểm tiền gửi lên cao hơn từ mức rất thấp như hiện nay là tối đa 75 triệu đồng,
để người gửi tiền, nhất là những người có nhiều tiền gửi, tạm yên tâm với tài sản
của mình phó thác cho các ngân hàng, tránh khả năng vì quá lo sợ, bất an nên họ
rút tiền ra đầu tư vào những lĩnh vực khác.
Cơ quan chức năng
cũng cần thường xuyên đánh giá tác động tiềm năng của một ngân hàng, đặc biệt
là những ngân hàng có quy mô lớn, lên toàn bộ hệ thống và cả nền kinh tế mỗi
khi ngân hàng này có vấn đề. Làm được như vậy, mỗi khi ngân hàng mục tiêu này gặp
rắc rối, tùy theo mức độ trầm trọng của vấn đề, cơ quan chức năng có thể nhanh
chóng đưa ra giải pháp xử lý thích hợp, bao gồm sát nhập/mua lại giữa các ngân
hàng (trong và ngoài nước) với nhau hoặc với một phần tiền từ ngân sách…, nhằm
bảo đảm tính ổn định của hệ thống ngân hàng.
Song song với những
giải pháp liên quan đến số phận các ngân hàng yếu kém, cơ quan chức năng cần sẵn
sàng, chủ động đưa ra kế hoạch tái cơ cấu và phục hồi các ngân hàng lớn có vấn
đề nhưng có khả năng phục hồi. Mặc dù đây không phải là chuyện mới với Việt
Nam, nhưng những lỗ hổng trong các vụ tái cơ cấu ngân hàng yếu kém gồm Ngân
hàng Xây dựng dẫn đến việc truy tố một số cán bộ NHNN gần đây cho thấy còn rất
nhiều việc phải làm trong công cuộc tái cơ cấu và phục hồi ngân hàng yếu kém ở
Việt Nam.
No comments:
Post a Comment