Tuesday, 1 May 2018

Bảo lãnh chính phủ lại được nới lỏng (Bài đăng trên TBKTSG, 1/5/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/271825/bao-lanh-chinh-phu-lai-duoc-noi-long.html

Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 433/QĐ-TTg sửa đổi bổ sung Quyết định 544/QĐ-TTg ngày 20-4-2017 về việc phê duyệt chương trình quản lý nợ trung hạn 2016-2018. Theo đó, Chính phủ sẽ “hạn chế việc cấp mới bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay trong và ngoài nước của doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư để đảm bảo các chỉ tiêu an toàn nợ trong giới hạn đã được Quốc hội phê duyệt”.
Nếu chỉ căn cứ vào nội dung của quyết định như trên thì có thể hiểu rằng quản lý nợ công của Chính phủ đang tiếp tục đi đúng hướng với bảo lãnh chính phủ sẽ được hạn chế, tiếp tục thắt chặt lại. Nhưng cần lưu ý rằng trong Quyết định 544 năm 2017, điều khoản tương ứng nêu rõ: “Tạm dừng toàn bộ việc cấp mới bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay trong và ngoài nước”.
Như vậy, Quyết định 433 đã nối lại việc cấp mới bảo lãnh chính phủ, dù rằng việc này sẽ bị hạn chế. Nói cách khác, so với năm trước, việc bảo lãnh chính phủ đã được nới lỏng. Từ đây, một số khả năng được đặt ra liên quan đến động thái này.
Khả năng thứ nhất là do tình hình nợ công đã được cải thiện nên Chính phủ thấy rằng có thể nối lại việc cấp mới bảo lãnh chính phủ. Nếu căn cứ vào một số báo cáo của các cơ quan hữu trách thì dường như khả năng này là hiện hữu. Chẳng hạn, theo Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (NFSC), tỷ lệ nợ công/GDP năm 2017 ước ở mức 62,6%, thấp hơn so với mức 63,6% cuối năm 2016 do tăng trưởng kinh tế khả quan cùng với các giải pháp đồng bộ về cơ cấu lại ngân sách, nợ công của Chính phủ. Theo đó, dư nợ và áp lực trả lãi của Chính phủ có xu hướng giảm. Dư nợ chính phủ so với GDP giảm xuống mức 51,8% (năm 2016 là 52,6%).
Tuy nhiên, một điểm cần lưu ý là tỷ lệ nợ công cải thiện trong năm 2017 có phần đóng góp thiết yếu nhờ những khoản cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước (DNNN) lên đến nhiều tỉ đô la Mỹ, giúp giảm thâm hụt ngân sách và kéo giảm tỷ lệ nợ công/GDP. Do việc cổ phần hóa và thoái vốn DNNN chỉ là những hoạt động mang tính thời điểm (không kéo dài mãi được, bán/thoái hết thì thôi) nên năm nay và những năm sau nữa không thể trông chờ vào những khoản thu tương tự cho ngân sách. Do đó, cũng không thể hy vọng tình hình nợ công sẽ được cải thiện nếu chỉ trông vào bên nguồn thu mà không tìm cách cắt giảm chi tiêu, trong đó có việc cấp bảo lãnh chính phủ, vốn có nguy cơ làm tăng nợ công khi doanh nghiệp được bảo lãnh không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán nợ của mình.
Việc nới lỏng bảo lãnh chính phủ trong bối cảnh nền quản trị và hiệu quả hoạt động của các DNNN không có mấy cải thiện so với trước đây, sẽ phải đối mặt với rủi ro tỷ lệ nợ công tiếp tục sớm tăng trở lại.
Khả năng thứ hai có thể giải thích cho việc nới lỏng cấp mới bảo lãnh chính phủ là do Chính phủ thấy rằng không thể không có bảo lãnh chính phủ cho nhiều dự án của các DNNN để các dự án có tính thuyết phục hơn về mặt tài chính. Nhờ bảo lãnh chính phủ, việc vay vốn các ngân hàng trong và ngoài nước sẽ dễ dàng hơn, với chi phí thấp hơn do rủi ro của dự án đã được Chính phủ “gánh”. Với bảo lãnh của Chính phủ, dự án vì thế sẽ có tính khả thi hơn, hiệu quả hơn, dễ được chấp nhận và phê chuẩn bởi các cấp có thẩm quyền.
Khả năng thứ ba là sau một thời gian tạm dừng toàn bộ việc cấp mới bảo lãnh, Chính phủ nhận thấy việc này đã được chấn chỉnh, và sau khi xem xét kỹ khả năng thu hồi vốn của những dự án được bảo lãnh, Chính phủ quyết định nối lại việc cấp mới bảo lãnh, mặc dù với phương châm “hạn chế”. Tuy nhiên, cho đến nay dư luận chưa thấy bất cứ một báo cáo nào cho thấy việc chấn chỉnh, tăng cường chất lượng xét duyệt bảo lãnh đã được diễn ra ở mức độ thỏa đáng để đảm bảo các dự án được tiếp tục cấp mới bảo lãnh là những dự án có hiệu quả, chắc chắn thu hồi được vốn (đúng hạn) nên cũng không thể khẳng định rằng Chính phủ quyết định nới lỏng việc cấp mới bảo lãnh là bởi khả năng này.
Như vậy, có thể tạm cho rằng sự nới lỏng việc cấp mới bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay trong và ngoài nước trong năm nay là sự kết hợp của sự cải thiện về tỷ lệ nợ công/GDP và bản chất “dựa dẫm”, không thể tách rời “bầu sữa” ngân sách nhà nước của các DNNN, dù là gián tiếp, thông qua bảo lãnh chính phủ.
Như trên đã phân tích, do sự cải thiện tỷ lệ nợ công/GDP năm trước chỉ là tạm thời, ngắn hạn nên việc nới lỏng bảo lãnh chính phủ trong bối cảnh nền quản trị và hiệu quả hoạt động của các DNNN không có mấy cải thiện so với trước đây, sẽ phải đối mặt với rủi ro tỷ lệ nợ công tiếp tục sớm tăng trở lại.
Để giảm thiểu rủi ro này có lẽ Chính phủ nên khống chế một mức trần cụ thể cho bảo lãnh trong năm nay (và các năm sau), thay vì nói chung chung là “hạn chế” như trong Quyết định 433, để trong trường hợp xấu nhất thì nợ công cũng không vì thế mà tăng vọt.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).