Friday 15 April 2022

Tăng lãi suất cho vay – ngân hàng không phải là tội đồ (Bài đăng trên KTSG, 14/4/2022)

https://thesaigontimes.vn/tang-lai-suat-cho-vay-ngan-hang-khong-phai-la-toi-do/

Mặt bằng lãi suất cả huy động và cho vay tại các ngân hàng thương mại đang có xu hướng tăng nhanh, thiết lập các mặt bằng mới cao hơn. Trong khi đó, Việt Nam đang tích cực theo đuổi mục tiêu hỗ trợ phục hồi nền kinh tế năm 2022 nên việc (để cho) lãi suất (cho vay) tăng chắc chắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu này. Do đó, vấn đề tăng lãi suất này cần phải có ai đó chịu trách nhiệm như “dê tế thần”. Một số người đã quy kết “tội đồ” đẩy lãi suất tăng chính là các ngân hàng thương mại, chủ yếu là các ngân hàng nhỏ. Việc quy kết này không chỉ phi lý mà còn sẽ tạo ra những hệ lụy tệ hại.

Tại sao lãi suất tăng?

Để hiểu sự phi lý trên thì trước tiên phải hiểu tại sao lãi suất, cả cho vay và huy động, lại tăng lên như hiện nay. Không khó để liệt kê một vài lý do chính. Đó là xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ của nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới, đáng kể nhất là Fed của Mỹ, để kiềm chế lạm phát đang tăng mạnh lên các mức kỷ lục sau khi nền kinh tế và tỷ lệ người lao động có việc làm của họ đã phục hồi (mạnh) sau thời kỳ dài lao dốc vì đại dịch.

Các ách tắc về logistics trên toàn cầu cũng góp phần nới rộng khoảng cách cung cầu hàng hóa, làm gia tăng áp lực lạm phát. Chiến tranh Nga – Ukraine đã trực tiếp và gián tiếp đẩy mạnh hơn nữa áp lực tăng giá xăng dầu và năng lượng toàn cầu.

Việt Nam không phải là một ốc đảo trên thế giới nên cũng chịu ảnh hưởng của các xu hướng toàn cầu. Về chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tuy có đủ lý do để ngần ngại công khai về xu hướng thắt chặt tiền tệ nhưng trên thực tế chắc chắn sẽ phải thắt chặt tiền tệ khi/nếu lạm phát tiếp tục gia tăng. Thắt chặt tiền tệ không chỉ làm giảm cung tiền dẫn đến giảm tổng cầu và giảm áp lực lạm phát trong nước, mà còn củng cố tỷ giá USD/VND, là điều cũng góp phần vào giảm áp lực tăng giá trong nước từ nhập khẩu.

Ngân hàng thương mại có phải là tội đồ?

Lưu ý một điều rất quan trọng ở đây là xu hướng quy kết sai trái rất phổ biến ở Việt Nam rằng việc tăng hay giảm lãi suất đơn thuần chỉ là do các ngân hàng thương mại Việt Nam (chạy đua) tăng hay giảm lãi suất, như nói ở phần đầu. Cần phải hiểu rằng ngân hàng thương mại chỉ là công cụ để truyền tải và thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN. Chỉ có NHNN mới là người quyết định và tạo lập mặt bằng lãi suất trong nước ở mọi thời điểm.

Trong bối cảnh lạm phát gia tăng thì NHNN, cũng như mọi ngân hàng trung ương trên thế giới, hầu như không còn lựa chọn chính sách khả thi nào ngoài việc thắt chặt tiền tệ, nên NHNN cũng không phải là tội đồ ở cái nghĩa là đã/sẽ làm điều gì đó xấu xa.

Nói thêm về lựa chọn chính sách của ngân hàng trung ương trong bối cảnh lạm phát, đã có những ngân hàng trung ương, như của Thổ Nhĩ Kỳ, cố gắng đi ngược lại các lý thuyết và thực tiễn kinh tế vĩ mô bằng cách... giảm lãi suất để kiềm chế lạm phát. Đương nhiên là kết quả của việc “ngược dòng” này như thế nào thì đã rõ.   

Cũng như phần đầu bài đã nói, việc quy kết ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng nhỏ, là tội đồ làm tăng mặt bằng lãi suất ở Việt Nam không chỉ sai mà còn gây hậu quả tai hại bằng cách hướng sự tập trung sự chỉ trích vào hoạt động huy động và cho vay bình thường của các ngân hàng, nhất là các ngân hàng nhỏ, gây áp lực cho cơ quan hữu trách áp dụng các công cụ tiền tệ mang tính hành chính rất sai lầm là trần lãi suất, từ đó bóp méo hoạt động bình thường của các ngân hàng thương mại, cũng như dẫn đến các hoạt động đối phó, “lách luật” của chúng càng làm tăng thêm các bất ổn vĩ mô.

Lãi suất sẽ tăng, vậy phải làm thế nào?

Như trên đã phân tích, khi/nếu lạm phát tiếp tục gia tăng và kéo dài thì xu hướng tăng lãi suất là điều gần như không thể đảo ngược và NHNN hầu như không thể tránh được việc này. Trong bối cảnh này, mục tiêu và nỗ lực phục hồi và tăng trưởng kinh tế năm 2022 đặt ra trước đó sẽ khó có khả năng không đạt được như kỳ vọng.

Tuy nhiên, tùy cách nhìn và góc nhìn, có thể đối với nhiều người, nhất là những người có trách nhiệm hay động cơ phải duy trì một bức tranh tăng trưởng kinh tế lạc quan, tươi sáng cho Việt Nam, thì việc thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát nhưng đổi lấy tăng trưởng chững lại là điều không thể chấp nhận được.

Do vậy, có nhiều khả năng sẽ có một thỏa hiệp chính sách ít nhất trong phần còn lại của năm, theo đó kinh tế sẽ tăng trưởng ở một tốc độ vừa phải (thấp hơn mục tiêu đặt ra) và lạm phát cũng sẽ ở mức cao hơn mức kỳ vọng (mục tiêu 4%) đôi chút.

Cũng cần nhắc lại rằng kế hoạch và mục tiêu hồi phục và tăng trưởng kinh tế năm 2022 đặt ra trước đó chắc chắn đã không tính được (đúng) mức độ thách thức của áp lực lạm phát đến từ bên trong và bên ngoài, nên cũng không nên lấy đó làm mục tiêu phải “quyết liệt” đạt được bằng mọi giá. Hãy nhớ lại mục tiêu, kỳ vọng và dự đoán tăng trưởng năm 2021, dù đã được điều chỉnh “sát nút” các diễn biến dịch bệnh mà cuối cùng vẫn “phá sản” với con số tăng trưởng công bố cuối năm thấp xa hơn nhiều.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).