Thursday 14 April 2022

Từ chỉ số Nhà quản trị mua hàng đến các giải pháp kinh tế hiện nay (Bài đăng trên KTSG, số 14/2022, ngày 07/4/2022)

https://thesaigontimes.vn/ktsg-so-14-2022-chung-khoan-va-giam-sat/

IHS Markit mới công bố báo cáo về Chỉ số Nhà quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam. Một số trong những kết quả khảo sát quan trọng từ báo cáo này là các doanh nghiệp đang trải qua tình trạng thiếu hụt lao động do đại dịch, nhưng số lượng đơn đặt hàng mới nói chung và số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đều tăng trong 6 tháng liên tiếp. Áp lực lạm phát đã làm tăng tốc độ gia tăng chi phí đầu vào, nhưng các nhà sản xuất đã bù đắp bằng tăng nhanh hơn giá bán hàng của họ (1).

Các kết quả khảo sát trên rất có ý nghĩa cho giới hoạch định chính sách của Việt Nam, liên quan đến các gói hỗ trợ và phát triển sản xuất kinh doanh đã/đang được đề xuất và/hoặc triển khai.

Thứ nhất, về tổng cầu, có thể nói tổng cầu ít nhất trong suốt 6 tháng qua cho đến hiện tại vẫn đang tăng trưởng tốt và có lẽ sẽ tiếp tục duy trì đà tăng này trong thời gian tới, như được phản ánh qua số lượng đơn đặt hàng mới và số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đều tăng liên tiếp trong 6 tháng qua.

Điều rút ra từ đây là các biện pháp hỗ trợ và kích thích không cần phải hướng theo mục tiêu mà ta hay được nghe đến là “kích thích tổng cầu”, chẳng hạn bằng cách giảm thuế, phí, tăng chi tiêu và đầu tư từ ngân sách, hay hỗ trợ tài chính để tăng chi tiêu của doanh nghiệp và hộ dân (thông qua, ví dụ, hạ lãi suất).    

Thứ hai, về áp lực lạm phát, giá cả gia tăng, báo cáo cho thấy nhà sản xuất kinh doanh đã “thành công” trong việc chuyển áp lực giá cả gia tăng này sang nhà sản xuất kinh doanh khác và/hoặc cuối cùng là sang người tiêu dùng. Có nghĩa là nhà sản xuất kinh doanh nhìn chung không bị ảnh hưởng, không chịu thiệt hại đáng kể từ việc giá cả gia tăng trong suốt thời gian qua.

Hàm ý của điều này là các chính sách kích thích, hỗ trợ kinh tế không cần phải hướng đến việc cắt giảm chi phí đầu vào đổi lấy tổn thất của ngân sách, chẳng hạn như hỗ trợ (bù) lãi suất, cắt giảm chi phí điện, nước, khí đốt, giảm phí thuê đất...

Đến đây, chắc chắn sẽ có nhiều người bật ra câu hỏi, cái gì cũng nói là không cần, từ cả phía sản xuất đến cả phía tiêu dùng, vậy thì chẳng nhẽ (Nhà nước) không cần phải làm gì, không cần phải ban hành chính sách hỗ trợ sản xuất, kinh doanh gì hay sao?

Câu hỏi này được trả lời bằng điều thứ ba rút ra từ báo cáo khảo sát nói trên. Từ kết quả khảo sát, có thể kết luận về “nguyên nhân của mọi nguyên nhân” là do đại dịch Covid-19, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhân công trầm trọng (không chỉ ở Việt Nam), không đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng sản xuất kinh doanh và xuất khẩu. Cũng chính đại dịch đã làm tắc nghẽn logistics, tăng thời gian giao hàng, bên cạnh những trở ngại (khách quan) khác như ách tắc ở biên giới với Trung Quốc, chiến tranh ở Ukraine...

Vậy thì chính sách kích thích, hỗ trợ sản xuất kinh doanh cần được triển khai theo hướng tăng cường chi cho công tác phòng chống dịch để hạn chế số ca nhiễm mới và điều trị những ca nhiễm hiện tại nhanh chóng bình phục để việc cách ly được giảm thiểu, người lao động nhanh chóng đủ điều kiện để quay lại phục vụ sản xuất, kinh doanh.

Chính sác cũng cần nhằm mục tiêu giải phóng các điểm tắc nghẽn trong chuỗi cung ứng, vận chuyển logistics. Sự tắc nghẽn do yếu tố khách quan thì đành chịu, nhưng những cản trở, nút thắt trong nước cần phải được thẳng thắn nhận diện và bãi bỏ. Trong số này, tất nhiên có giải pháp nói trên liên quan đến phòng chống dịch để ngành logistics nhanh chóng có đủ số lượng nhân công cần thiết nhằm duy trì hoạt động như và hơn bình thường khi nhu cầu sản xuất kinh doanh vẫn tiếp tục tăng trưởng.

Ngoài ra, khi số lượng người lao động quay trở lại làm việc tăng lên, việc làm hồi phục và tăng trưởng trở lại, tổng cầu (và tổng cung) sẽ càng tăng trưởng nhanh hơn.

Như vậy, từ phân tích trên có thể nhìn thấy một số bất cập trong chính sách kích thích, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế hiện nay, gồm việc kích cầu trong khi cầu vẫn tăng trưởng tốt; và kích cung trong khi nhà sản xuất kinh doanh vẫn mở rộng sản xuất (dù chậm hơn, do thiếu hụt lao động) và hầu như không bị ảnh hưởng gì đáng kể về mặt tài chính (nếu không muốn nói ngược lại, vì họ đã tăng được giá bán nhanh hơn tốc độ tăng giá đầu vào).

Thay vào đó, chính sách kích thích, hỗ trợ cần phải tập trung vào bảo vệ người lao động và gia đình của họ để đảm bảo nhu cầu tăng lên về lao động luôn được đáp ứng nhanh chóng và đầy đủ kể cả trong bối cảnh đại dịch vẫn còn hoành hành trên phạm vi cả nước. Các chính sách này cũng cần giảm, xóa bỏ các ách tắc về logistics trong nước, gồm các rào cản hành chính, tệ tham nhũng, quấy nhiễu doanh nghiệp và người kinh doanh của các cơ quan chức năng liên quan đến logistics...

Thực hiện được theo hướng trên thì không những sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế sẽ được phục hồi và phát triển một cách tối ưu nhất mà còn góp phần làm lành mạnh hóa tài chính công (ngân sách không bị áp lực thâm hụt ngày càng gia tăng do tăng chi quá mạnh, quá nhanh) và ổn định kinh tế vĩ mô (Ngân hàng Nhà nước không cần phải nới lỏng tiền tệ để hạ lãi suất, chi bù lãi suất...).

----    

https://vneconomy.vn/pmi-thang-3-giam-xuong-51-7-diem-chi-phi-dau-vao-tang-nhanh-nhat-trong-gan-11-nam.htm

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).