Monday 18 April 2022

FinTech đâu chỉ có thế! (Bài đăng trên KTSG, 18/4/2022)

 https://thesaigontimes.vn/fintech-dau-chi-co-the/

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng. Bài viết nêu ra một số vấn đề góp ý cho dự thảo này.

Công ty Fintech không chỉ hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng

Khoản 1 Điều 3 của dự thảo có giải thích khái niệm “giải pháp công nghệ tài chính (giải pháp Fintech)” nhưng chỉ bó hẹp phạm vi trong lĩnh vực ngân hàng. Trong khi đó, Khoản 2 của điều khoản này giải thích về “công ty công nghệ tài chính (công ty Fintech)” là tổ chức phi ngân hàng cung ứng “giải pháp Fintech” ra thị trường.

Do cụm từ “giải pháp Fintech” được dùng chung trong cả hai khoản mục, vô hình trung dự thảo đã đánh đồng các công ty Fintech nói chung thành công ty Fintech hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, cung cấp các giải pháp Fintech chỉ trong lĩnh vực ngân hàng. Hậu quả của việc này là sự có thể đặt ra ngoài vòng pháp luật hoặc không công nhận các giải pháp Fintech và công ty Fintech không trong lĩnh vực ngân hàng, sau khi Cơ chế thử nghiệm đã hoàn thành và Fintech ngân hàng được cấp phép triển khai cả nước.

Danh sách các giải pháp Fintech trong lĩnh vực ngân hàng quá hạn hẹp

Tương tự vấn đề nêu trên ở khía cạnh phạm vi quy định hạn hẹp. Điều 7 liệt kê 6 giải pháp Fintech trong lĩnh vực ngân hàng được phép thử nghiệm tại Cơ chế thử nghiệm. Tuy nhiên, giải pháp Fintech trong lĩnh vực ngân hàng không chỉ có vậy, mà còn có thêm, chẳng hạn, giải pháp Fintech trong lĩnh vực thanh toán nội địa/quốc tế (qua hoặc không qua tài khoản ngân hàng), là giải pháp không nằm trong 6 giải pháp Fintech được phép thử nghiệm trong dự thảo.

Nếu chỉ giới hạn ở danh sách được phép như trên thì đến khi nhà làm chính sách gặp sức ép từ nhu cầu của thị trường phải xem xét cấp phép bổ sung các giải pháp Fintech (mới) khác thì họ sẽ lại phải ra một nghị định mới quy định về một cơ chế thử nghiệm mới. Họ cũng sẽ lại phải sửa lại các luật có liên quan, như nói thêm dưới đây. Các quá trình này sẽ kéo dài hàng năm, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phổ cập các công nghệ tài chính mới có ích lợi cho quốc dân.       

Thiếu khuyến khích tham gia thử nghiệm

Điều 6 dự thảo quy định, đối với tổ chức tín dụng, công ty Fintech không có nhu cầu tham gia Cơ chế thử nghiệm hoặc không được tham gia Cơ chế thử nghiệm do không đáp ứng đầy đủ các tiêu chí tham gia Cơ chế thử nghiệm theo quy định tại Nghị định này, các tổ chức này hoạt động và tuân thủ theo các quy định của pháp luật hiện hành.

Trong khi đó, trong toàn bộ dự thảo không thấy đề cập đến quyền lợi của các công ty Fintech tham gia Cơ chế thử nghiệm, nhất là so với các công ty Fintech không (được) tham gia, như một hình thức khuyến khích hay tưởng thưởng cho sự tình nguyện làm “vật thí nghiệm” cho Cơ chế thử nghiệm. Điều này càng được thể hiện rõ khi xem xét vế ngược lại, về trách nhiệm, nghĩa vụ. Các công ty tham gia thử nghiệm lại bị ràng buộc, hạn chế và chế tài bởi nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm trong dự thảo, trong khi các công ty không tham gia thì đương nhiên là không bị, bởi... không tham gia Cơ chế thử nghiệm

Một trong những gợi ý chính sách ở đây là khuyến khích gián tiếp sự tham gia thử nghiệm thông qua quy định xiết chặt hoạt động của các công ty Fintech không (được) tham gia, chẳng hạn chỉ được phép hoạt động trong một số lĩnh vực, trong một phạm vi và với đối tượng rất hạn hẹp, ít nhất cho đến khi khuôn khổ pháp lý về dịch vụ và công ty Fintech được xây dựng hoàn chỉnh. Hoặc việc xin giấy phép hoạt động chính thức hoặc giải pháp Fintech của các công ty Fintech không (được) tham gia thử nghiệm sẽ bị kéo dài và/hoặc xem xét khắt khe hơn, xếp hàng ưu tiên dưới các công ty có tham gia sau khi Cơ chế thử nghiệm hoàn tất và các quy định pháp luật liên quan được xây dựng và ban hành.

Mâu thuẫn về quy định pháp lý

Cần lưu ý rằng giải pháp cho vay ngang hàng, một trong những giải pháp được phép thử nghiệm trong dự thảo, theo đúng nghĩa thì chính là một hoạt động ngân hàng (hoạt động cho vay, cấp tín dụng). Trong khi đó, Điều 8 Luật Các Tổ chức Tín dụng năm 2010 “nghiêm cấm cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động ngân hàng, trừ giao dịch ký quỹ, giao dịch mua, bán lại chứng khoán của công ty chứng khoán”. Vì, cũng như dự thảo nêu rõ, công ty Fintech không phải là tổ chức tín dụng nên đương nhiên chúng bị cấm cho vay ngang hàng theo Luật Các Tổ chức Tín dụng.

Nay, theo dự thảo, hoạt động cho vay (ngang hàng) của công ty Fintech lại được phép và công nhận (dù chỉ là trong giai đoạn thử nghiệm). Điều này mâu thuẫn/trái với quy định liên quan trong Luật Các Tổ chức Tín dụng năm 2010 (cấm hoạt động này). Vì Nghị định là văn bản dưới luật nên để dự thảo Nghị định được hoàn thiện và ban hành thành Nghị định mà không trái luật thì phải sửa Luật Các Tổ chức Tín dụng, bổ sung thêm điều khoản về Fintech và công ty Fintech (và sự thử nghiệm của chúng, sự trao quyền cho NHNN tiến hành thử nghiệm...).

Sự cho phép công ty Fintech được thử nghiệm hoạt động cho vay ngang hàng như theo dự thảo còn mâu thuẫn/trái với chính nó. Điều 9 quy định về điều kiện và tiêu chí tham gia Cơ chế thử nghiệm. Theo đó, một trong các tiêu chí để giải pháp Fintech được tham gia thử nghiệm phải là “giải pháp mà nội dung kỹ thuật và nghiệp vụ hoàn toàn chưa được quy định tại bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào hoặc quy định pháp lý hiện hành chưa có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho việc triển khai, áp dụng” (Khoản 3, Mục a). Chiểu theo điều khoản này thì thực ra hoạt động cho vay, cấp tín dụng dưới hình thức cho vay ngang hàng không được phép đưa ra thử nghiệm vì nó đã được quy định rõ tại Luật Các Tổ chức Tín dụng (bị cấm bởi luật này, bởi công ty Fintech không phải là tổ chức tín dụng). Do đó, một lần nữa có thể thấy để ban hành nghị định về Cơ chế thử nghiệm này thì cần trước hết phải sửa Luật Các Tổ chức Tín dụng. 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).