Monday 19 September 2022

Lừa đảo tài chính: các ngân hàng không vô can (Bài đăng trên KTSG, 19/9/2022)

https://thesaigontimes.vn/lua-dao-tai-chinh-cac-ngan-hang-khong-vo-can/

Mấy năm gần đây nở rộ các vụ lừa đảo tài chính, theo mô típ kẻ gian mạo danh cơ quan chức năng gọi điện đến bị hại dọa nạt và yêu cầu bị hại chứng minh tiền trong tài khoản của bị hại là tiền “sạch”, hợp pháp bằng cách chuyển tiền có trong tài khoản ngân hàng vào tài khoản do “cơ quan chức năng” chỉ định để rồi... mất hút.

Một trong các điểm chung của kiểu lừa đảo này là tài khoản ngân hàng mà kẻ gian “chỉ định” bị hại chuyển tiền vào là tài khoản hoặc không chính chủ, hoặc được mở dựa trên thông tin giả mạo (lấy từ chứng minh, căn cước công dân giả).

Một điểm chung khác nữa là mặc dù số tiền mà bị hại bị kẻ gian yêu cầu chuyển đi nhiều khi rất lớn, hàng tỷ đồng, nhưng ít khi bị (nhân viên) ngân hàng nghi ngờ, tìm cách xác thực mục đích để ngăn chặn lừa đảo.

Và điểm chung thứ ba, đúng hơn thì là quan sát riêng của người viết đối với những người quen biết xung quanh đã và “suýt nữa” thì trở thành bị hại của bọn lừa đảo, là bọn lừa đảo chỉ toàn “vô  tình” nhắm trúng các đối tượng có nhiều tiền trong tài khoản ngân hàng.

Các điểm chung nêu trên dẫn đến một kết luận có cơ sở là một trong những nguyên nhân làm nở rộ các vụ lừa đảo kiểu chuyển tiền chứng minh nguồn gốc này là từ chính các ngân hàng, và cần phải làm điều gì đó để ngân hàng không vô can, phải có trách nhiệm với hoạt động của mình để không làm phương hại đến quyền lợi của khách hàng.

Cụ thể hơn, với các gian lận liên quan đến tài khoản nói trên, nếu làm đúng và làm tốt thì (nhân viên) ngân hàng sẽ giảm thiểu được nguy cơ lừa đảo từ kênh này.

Để so sánh, xin lấy ví dụ về ngân hàng ở Singapore. Khi đi mở tài khoản, các thủ tục mở cũng không khác biệt mấy hoặc phức tạp hơn so với của Việt Nam. Tuy nhiên, một điểm khác biệt đáng kể là giấy tờ chứng minh nhân thân, ví dụ như thẻ căn cước, của Singapore rất đặc trưng, khó làm giả. Từ đó, nếu nhân viên ngân hàng làm đúng và tốt bổn phận của mình thì hoàn toàn có thể loại trừ ngay được khả năng lừa đảo dựa trên giả mạo giấy tờ tùy thân. Bản thân bọn tội phạm chắc chắn cũng không dám mạo hiểm sử dụng giấy tờ tùy thân giả để mở tài khoản tại Singapore bởi khả năng bị phát hiện giả mạo là rất cao.

Trong khi đó, ở Việt Nam, không ít trường hợp lừa đảo trót lọt là sử dụng tài khoản mở từ giấy tờ tùy thân (chứng minh nhân dân, thẻ căn cước...) giả mà bọn tội phạm đặt mua trên mạng, với thông tin tất nhiên là hoàn toàn giả mạo.

Lỗi trong trường hợp này trước hết không thể phủ nhận có phần của việc giấy tờ tùy thân ở Việt Nam dễ làm giả, với cái giá rất rẻ, rao bán công khai trên mạng (nên càng khẳng định được là chúng dễ... bị làm giả!). Không biết có phải vậy mà chính quyền đang ráo riết triển khai cấp căn cước công dân gắn chip hay không.

Tuy nhiên, điều này không thể là biện minh cho việc (nhân viên) ngân hàng không phát hiện được giấy tờ tùy thân này là giả mạo. Bởi cũng đã có không ít trường hợp (nhân viên) ngân hàng phát hiện tại chỗ hoặc sau đó rằng kẻ gian đã sử dụng giấy tờ giả mạo, như vẫn được phản ánh qua báo chí.

Như vậy, có thể khẳng định sự non kém, thiếu trách nhiệm, hoặc thậm chí cả sự thông đồng của nhân viên ngân hàng, cũng như quy trình kiểm tra, giám sát rủi ro bất cập của ngân hàng liên quan đến mở và duy trì tài khoản ngân hàng của khách hàng là một trong những nguồn cơn của nạn lừa đảo tài chính.

Quay trở lại với ví dụ về Singapore. Người viết từng đôi lần ra ngân hàng để cập nhật chi tiết mới về nhân thân của mình, sử dụng thẻ căn cước cấp mới, khác loại với thẻ cũ. Nhân viên ngân hàng sau khi yêu cầu người viết bỏ khẩu trang (thời đó Covid đang hoành hành, các nơi công quyền khác thường không yêu cầu công dân bỏ khẩu trang) và lật đi lật lại thẻ căn cước, “soi” chán chê mặt thật với trên ảnh thì chuyển sang so sánh chữ kỹ tươi và chữ ký lưu trong hệ thống, yêu cầu người viết ký lại sao cho giống như lưu mới thôi. Chưa hết, “tự nhiên” có một nhân viên khác, trông như quản lý, bước đến và soi một lần nữa mặt thật với trên ảnh cũng như bản thân cái thẻ căn cước. Quả là khó mà giả mạo để qua được quy trình kiểm tra “bốn mắt” này, trừ khi cả hai nhân viên này đều có... vấn đề!     

Lỗi và sự thiếu trách nhiệm của ngân hàng và nhân viên của họ ở còn được thể hiện sự yếu kém, thiếu trách nhiệm và/hoặc bất cập trong quy trình giám sát rủi ro, phòng chống rửa tiền, gian lận thương mại của ngân hàng. Bằng chứng là nhiều bị hại đã thực hiện chuyển tiền tại quầy “trót lọt” hàng tỷ đồng mà không bị nhân viên nghiệp vụ nghi ngờ, phát hiện và ngăn chặn.

Kể cả bị hại thực hiện chuyển tiền qua mạng, việc chuyển thành công một số tiền lớn một cách tức khắc, dễ dàng cũng cho thấy những yếu kém và tồn tại của ngân hàng liên đới. 

Lại nói về kinh nghiệm của người viết với ngân hàng ở Singapore. Có đôi lần người viết thực hiện chuyển tiền giao dịch, với giá trị tương đương khoảng hơn 2 tỷ đồng, tại ngân hàng. Thế mà tại quầy giao dịch, người viết cũng phải đối mặt với một nhân viên giao dịch và người quản lý ngân hàng, phải trình bày lý do chuyển tiền kèm theo bằng chứng tại sao phải cần chuyển tiền, dù người thụ hưởng là một ngân hàng khác với tài khoản ở Singapore.

Đối với việc chuyển tiền qua mạng ở Singapore, số tiền tối đa có thể chuyển được (trong một ngày) bị khống chế. Và để thay đổi hạn mức chuyển từ mức mặc định sang mức cao hơn (nhưng vẫn phải không cao hơn hạn mức tối đa trong ngày) thì thường phải được ngân hàng duyệt sau ít nhất 12 giờ kể từ khi yêu cầu thay đổi hạn mức.

Về sự “thính nhạy” của bọn lừa đảo khi nhắm rất trúng các đối tượng có nhiều tiền trong tài khoản, khó mà bỏ qua được khả năng có “tay trong” từ ngân hàng. Và đây là một kênh để truy tìm dấu vết bọn tội phạm, nếu nhà chức trách để mắt đến việc quản lý, kiểm soát thông tin về tài khoản và khách hàng (bị hại) từ phía ngân hàng, nơi bị hại mở tài khoản và gửi tiền.

Tuy nhiên, việc điều tra sẽ trở nên khó khăn hơn, và ngân hàng cũng có cớ để biện minh sự vô can, bởi hiện nay ngân hàng không còn là nơi độc quyền quản lý và kiểm soát thông tin tài khoản và khách hàng gửi tiền nữa. Chẳng hạn, theo luật, ngân hàng phải cung cấp thông tin liên quan cho cơ quan thuế. Do đó, cũng khó mà phủ định 100% rằng sẽ không có chuyện thất thoát thông tin khi có nhiều hơn một bên được quyền tiếp cận thông tin khách hàng.

Dẫu vậy, việc cần làm là vẫn phải truy dấu vết rò rỉ thông tin từ các bên liên đới, đặc biệt là ngân hàng, nhất là trong trường hợp thông tin khách hàng không/chưa bị chia sẻ với cơ quan chức năng.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).