Sunday 11 September 2022

Room tín dụng có ngăn được cuộc đua lãi suất? (Bài đăng trên KTSG, 9/9/2022, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/room-tin-dung-co-ngan-duoc-cuoc-dua-lai-suat/

Room tín dụng có ngăn được cuộc đua lãi suất?

Một trong những vấn đề lấn cấn liên quan đến duy trì hay bỏ hạn mức tăng trưởng tín dụng, thường được biết đến là “room” tín dụng, là tác động của nó đến lãi suất. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và giới chuyên gia vẫn cho rằng việc duy trì room tín dụng sẽ ngăn chặn chạy đua lãi suất (huy động) giữa các ngân hàng thương mại, từ đó kiềm chế được lạm phát, ổn định được kinh tế vĩ mô, nên tiếp tục duy trì room tín dụng là điều cần thiết (1).

“Không cô thì chợ vẫn đông”

Theo cách hiểu của phía ủng hộ duy trì room tín dụng, sự tồn tại của room tín dụng buộc các ngân hàng chỉ được huy động vốn trong hạn mức mà NHNN cho phép. Nếu hết hoặc vượt quá room thì ngân hàng phải dừng huy động, tức sẽ không còn có thể tác động đến (đẩy lên cao) mặt bằng lãi suất huy động nữa.     

Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay đã chứng kiến một xu hướng rõ ràng về tăng lãi suất huy động ở hầu hết các ngân hàng thương mại, đẩy mặt bằng lãi suất huy động liên tục lên cao hơn qua các tháng. Cho dù có thể ai đó vẫn ngần ngại gọi đây là một cuộc chạy đua lãi suất thì vẫn cần nhận thấy rằng xu hướng đẩy cao lãi suất huy động hiện nay diễn ra trong bối cảnh nhiều ngân hàng thương mại đã sử dụng hết hoặc gần hết, thậm chí là vượt room tín dụng được NHNN cấp cho họ từ đầu năm.

Mà không chỉ có năm nay. Cuộc đua lãi suất hay một cái gì đó tương tự hầu như là một câu chuyện trường kỳ, thường xuyên diễn ra trong hàng chục năm qua, kể cả khi room tín dụng được chính thức áp dụng, và kể cả khi đa số ngân hàng đã chạm trần room tín dụng (2) (3) (4).

Cho nên, nếu nói là nhờ có room tín dụng mà các ngân hàng không (thể) chạy đua tăng lãi suất được thì rõ ràng đây chỉ là sự nói lấy được, không đúng với thực tế. Nói cách khác, room tín dụng không ngăn chặn được sự hình thành và tăng nhiệt của các cuộc đua lãi suất, là điều sẽ được giải thích thêm ở phần sau.

Cũng cần biết thêm rằng, đối mặt với các cuộc đua lãi suất này, thường NHNN phải nhượng bộ, làm dịu thị trường bằng cách tung ra thêm thanh khoản (bơm thêm tiền) và/hoặc nới room tín dụng. Lý do thường là áp lực của thị trường, của Chính phủ, cũng như nỗi lo về sức khỏe của hệ thống ngân hàng trong các cuộc đua lãi suất. Điều này càng làm cho mục đích tồn tại của room tín dụng, như được biện minh, trở nên nhạt nhòa, vô căn cứ.

Tại sao room tín dụng vô dụng?

Lý do đầu tiên làm cho room tín dụng không ngăn được các cuộc đua lãi suất nằm ngay chính ở việc vi phạm room mà không bị xử lý. Chẳng hạn, Vietcombank được NHNN tạm cấp hạn mức 10% nhưng mức tăng trưởng cho vay tính đến hết tháng 6 của ngân hàng này đã vượt xa hạn mức này, đạt 14,4% (5). Dù thế, ngân hàng này vẫn tham gia cuộc đua lãi suất cùng với các ngân hàng khác như không hề có điều gì (sẽ) xảy ra. Và cũng như thường lệ, chưa thấy NHNN công bố hay có kế hoạch áp đặt chế tài gì đối với những vi phạm kiểu này. Hậu quả tiếp theo như thế nào (lên tính chính danh của room tín dụng) thì chắc cũng không cần phải nói/tiên đoán.       

Tiếp đó, như đã nói, thường thì NHNN sẽ chạy theo thị trường khi có lãi suất nóng lên đến mức căng thẳng, bằng cách bơm thanh khoản và/hoặc nới room tín dụng. Rủi ro đạo đức kiểu này, kết hợp với việc NHNN “bỏ qua” các vi phạm như nói trên, đương nhiên tạo ra vòng xoáy tiêu cực – các ngân hàng mặc sức chạy đua huy động vốn nếu cần mà không lo bị xử lý và rồi thế nào thì NHNN sẽ “vào cuộc” để hỗ trợ hệ thống nói chung và từng ngân hàng nói riêng.

Lý do khác nữa là cho dù ngân hàng đã tiệm cận room tín dụng, không cho vay mới được nữa (và giả sử NHNN rất nghiêm khắc với việc tuân thủ room tín dụng) thì ngân hàng vẫn không thể ngừng hoàn toàn huy động và duy trì vốn huy động để đáp ứng được một số yêu cầu hoạt động cơ bản, nên vẫn phải đảm bảo một lãi suất huy động đủ hấp dẫn để thu hút, giữ chân khách gửi tiền, tức là sẽ không thoát khỏi cuộc đua tăng lãi suất. Và xin nhấn mạnh rằng, tham gia cuộc đua lãi suất kiểu này hoàn toàn là hợp pháp, bất kể có room tín dụng hay không.   

Đối với các ngân hàng vẫn còn room tín dụng, nhất là các ngân hàng nhỏ, yếu, họ luôn trong tình thế phải tăng lãi suất huy động để cạnh tranh được với những ngân hàng lớn, mạnh hơn. Trong những bối cảnh mà tín dụng/thanh khoản căng thẳng, như được thể hiện qua việc nhiều ngân hàng đã tăng trưởng mạnh đến mức cạn room tín dụng, thì việc tăng lãi suất của các ngân hàng dù là nhỏ (và hoàn toàn hợp pháp) cũng sẽ châm ngòi cho cuộc đua lãi suất, lôi kéo theo các ngân hàng lớn nhập cuộc dù chỉ để bảo vệ thị phần.

Cuối cùng, room tín dụng được xác định một cách khá định tính, và quan trọng hơn, không được luật hóa (một cách minh bạch, rõ ràng, nhất quán), nên không thể tránh khỏi sẽ có sự mâu thuẫn với các chỉ tiêu hoạt động an toàn mà chính NHNN ban hành, được luật hóa khác. Giả sử ngân hàng vẫn còn dư địa cho vay nếu căn cứ vào, chẳng hạn, chỉ tiêu về vốn tối thiểu nhưng lại bị trói tay bởi hạn mức tín dụng mà vì một lý do nào đó được cấp rất hạn hẹp dẫn đến ngân hàng không còn room để cho vay nữa. Lúc đó, sẽ là phi lý, phạm luật nếu khăng khăng áp dụng room tín dụng để buộc ngân hàng không được cho vay mới nữa, (hy vọng) họ không chạy đua tăng lãi suất huy động.

Phải chăng cũng chính vì vấn đề danh không chính ngôn không thuận này mà NHNN chưa/không thể làm căng chuyện vi phạm room tín dụng?

Tóm lại, room tín dụng không thể ngăn được chạy đua lãi suất trên cả lý thuyết lẫn thực tế. Có hay không room tín dụng thì ngân hàng vẫn có nhu cầu tự thân và được phép chạy đua lãi suất một cách hợp pháp khi cần.   

------

(1)    https://cafef.vn/nen-siet-hay-noi-room-tin-dung-20220830111351979rf2022090318325503.chn

(2)    https://tuoitre.vn/nhieu-ngan-hang-lai-chay-dua-lai-suat-20190829230411522.htm

(3)    https://baodautu.vn/ngan-hang-chay-dua-thanh-khoan-cuoi-nam-d158104.html

(4)    https://baodauthau.vn/chay-dua-lai-suat-bao-gio-thi-dung-post10804.html

https://zingnews.vn/nhieu-ngan-hang-da-can-room-tin-dung-post1341596.html

2 comments:

  1. Toi rat thich doc cac bai viet cua bac, rat sac sao va co ly! Tuy nhien, doc bai nay toi man phep co mot binh luan nho: Room tin dung chi la mot trong nhung cong cu dieu hanh cua NHNNVN. An dinh room tin dung chi la de kiem soat muc tang tin dung hang nam phu hop voi tang truong kinh te va cac bien so vi mo khac.( chang han nhu lam phat...).Khi het room tin dung , viec cac NHTM co tang lai suat huy dong hay khong de hut von vao nh minh la viec cua NHTM. Do vay dat van de, han che tang tin dung de han che tang lai suat huy dong la mot dinh de khong chac chan ma tac gia da lay no de lam co so cho bai viet cua minh!

    ReplyDelete
    Replies
    1. Trả lời đồng chí: 1. Nếu "chỉ là để kiểm soát mức tăng tín dụng hàng năm" thì room tín dụng là không cần thiết, như tớ đã nói nhiều lần ở nhiều bài. Cái này có thể thực hiện bằng mức độ lỏng/chặt của chính sách tiền tệ (cung tiền). 2. Tớ không "đặt vấn đề hạn chế tăng tín dụng để hạn chế tăng lãi suất huy đông", mà đây là vấn đề người khác đặt ra (hình như đồng chí TS. Trần Tuấn Anh như trong link của bài), và tớ viết bài này để phân tích tại sao đặt vấn đề kiểu này là sai, bởi có hay không có room tín dụng thì ngân hàng vẫn có quyền tăng lãi suất nếu muốn.

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).