https://thesaigontimes.vn/cai-gia-cua-on-dinh-ty-gia/
Tỷ giá USD/VND là
một vấn đề “nhạy cảm” ở Việt Nam. Những giai đoạn tỷ giá căng thẳng theo hướng
tiền đồng suy yếu so với đô la Mỹ, mọi sự tập trung, của dư luận và của chính
sách, đều dồn vào khía cạnh liệu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có “ổn định” được tỷ
giá – tức giữ tỷ giá không tăng mạnh – hay không.
Lý do được viện dẫn
để kêu gọi, ủng hộ nỗ lực ổn định tỷ giá chủ yếu là lợi ích trước mắt của
chúng, gồm ngăn không cho nợ quốc gia, đặc biệt là nợ công, tăng lên, cũng như
giảm thiểu nhập khẩu lạm phát. Bên cạnh đó, tác động tích cực của tỷ giá tăng
(tiền đồng mất giá) lên cán cân xuất nhập khẩu bị coi nhẹ, thậm chí hiểu sai.
Tiền chạy từ
túi này sang túi kia
Về tác động của tỷ
giá lên nợ nói chung và nợ công nói riêng, đúng là các con nợ có vay mượn bằng
ngoại tệ, bất kể đó là Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư
nhân hoặc cá nhân, đều được hưởng lợi nếu tỷ giá không tăng lên (tiền đồng
không mất giá). Tuy nhiên, cái giá phải trả cho sự ổn định này thì hầu như
không được biết đến hoặc được ai quan tâm.
Không phải tự
nhiên mà NHNN có thể giữ ổn định được tỷ giá. Công cụ ổn định tỷ giá, mang tính
kinh tế, mà NHNN có thể thực hiện là bán đô la can thiệp, và/hoặc giảm bớt lượng
tiền đồng lưu thông trong nền kinh tế.
Với kênh bán đô
la can thiệp, cái giá nhãn tiền là quỹ dự trữ ngoại hối đã hao hụt trên chục tỷ
đô la chỉ trong mấy tháng qua và con số bán ra can thiệp là rất đáng kể so với
giá trị quỹ dự trữ ngoại hối chừng trên 100 tỷ đô la, một con số khá khiêm tốn,
nằm không quá xa ngưỡng an toàn tối thiểu so với kim ngạch nhập khẩu quốc gia.
Với kênh hút tiền
đồng về, cái giá phải trả là mặt bằng lãi suất (tiền đồng) tăng lên, đẩy các
ngân hàng vào cuộc đua lãi suất không hồi kết nếu nền kinh tế tiếp tục mở rộng.
Cả hai kênh nói
trên tuy giữ được tỷ giá ổn định ở một mức độ nào đó, và là điều có lợi cho các
con nợ bằng ngoại tệ, nhưng lại gây phương hại cho nhà nước khi quỹ dự trữ ngoại
hối bị hao hụt mạnh, ảnh hưởng đến an toàn tài chính quốc gia. Nó cũng gây
phương hại cho toàn bộ doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế khi lãi suất tăng
cao dẫn đến chi phí vay mượn bằng tiền đồng tăng mạnh, làm giảm doanh thu và lợi
nhuận.
Nói cách khác, ổn
định tỷ giá thực chất là lấy tiền của cộng đồng để trợ cấp cho một nhóm nhỏ đối
tượng. Điều phi lý này phần nào có thể được chấp nhận nếu nợ quốc gia bằng ngoại
tệ chủ yếu là nợ công, hoặc ở mức độ kém thuyết phục hơn, nợ của doanh nghiệp
nhà nước (dẫu sao cũng có chữ “nhà nước”). Nhưng vì điều này là không đúng nên
rốt cuộc nó có nghĩa là tiền đang được chuyển từ túi công cộng sang túi của thậm
chí cả tư nhân (lưu ý rằng nhiều doanh nghiệp nhà nước chỉ có một phần vốn nhà
nước).
Nhập khẩu lạm
phát nhiều khi chỉ là con ngoáo ộp
Nhập khẩu lạm
phát là một lý do chủ yếu khác của bên ủng hộ ổn định tỷ giá. Thực tế thì trong
nhiều giai đoạn tỷ giá tăng mạnh, lạm phát không vì thế mà bột phát, và ngược lại.
Điều quan trọng là chính sách tiền tệ của NHNN được điều hành theo xu hướng nào,
và nó mới là động lực chính quyết định xu hướng của lạm phát sẽ đi về đâu.
Hiện tại, trong bối
cảnh lạm phát cao đang lan tràn ở nhiều nước trên thế giới, đi kèm với sự sụt
giá của nội tệ của họ, không có mấy nước chống lạm phát bằng cách bán ngoại tệ
để “ổn định” tỷ giá bản tệ nhằm hạ lạm phát trong nước. Thay vào đó, trào lưu
chung chỉ là thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách nâng lãi suất cho vay từ
các ngân hàng trung ương. NHNN thực chất cũng đang đi theo xu hướng này thông
qua nâng mạnh lãi suất cho vay trên thị trường mở và lãi suất tín phiếu ngân
hàng, cho dù cố tránh một động thái chính thức là công bố các mức lãi suất điều
hành mới.
Tác động tích
cực của tỷ giá tăng lên xuất khẩu vẫn bị hiểu sai... kinh niên!
Có một điều rất lạ
là tác động kích thích xuất khẩu của đồng bản tệ yếu vẫn luôn bị hiểu sai, cho
dù dư luận đã tốn rất nhiều giấy mực. Vẫn có nhiều chuyên gia, học giả cho rằng
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải nhập nguyên vật liệu bằng đô la nên dù được
lợi về giá xuất khẩu (quy ra tiền đồng) thì lại bị thiệt về chi phí (cũng quy
ra tiền đồng). Có vị chuyên gia còn “chi ly” hơn khi cho rằng doanh nghiệp vẫn
phải sử dụng các dịch vụ bằng đô la như vận tải viễn dương, bảo hiểm... nên các
chi phí loại này cũng tăng lên.
Xin nhắc nhở rằng
chừng nào trong cấu phần chi phí của một sản phẩm nào đó sản xuất tại Việt Nam,
được xuất đi thị trường thế giới theo giá đô la, có dù chỉ 1% là chi phí cho
nguồn lực sử dụng tại Việt Nam, bằng tiền đồng, và chừng nào giá bán sản phẩm
này bằng đô la không thay đổi tại thị trường nó được xuất khẩu đi thì chừng đó
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam vẫn được lợi khi tiền đồng mất giá, bởi: Doanh
thu (không đổi, nếu tính bằng đô la) – Chi phí (không đổi, nếu tính bằng đô la)
= Lợi nhuận (lớn hơn, nếu tính bằng đô la sau phá giá bản tệ, và sẽ lớn hơn nữa,
nếu tính bằng tiền đồng).
Bằng số, giả sử trong
một cái áo sơ mi xuất khẩu có giá bán 100 đô la, chi phí các loại là 98 đô la
và 10.000 tiền đồng. Lợi nhuận tại tỷ giá USD/VND=20.000 là 100 – 98 –
10.000/20.000 = 1,5 đô la (hoặc 30.000 đồng). Khi tỷ giá tăng lên 22.000, lợi
nhuận mới sẽ là 100 – 98 – 10.000/22.000 = 1,545 đô la (hoặc 34.000 đồng), tức
tăng lên gần 0,05 đô la (hay 4.000 đồng cao hơn) so với trước khi tiền đồng mất
giá.
Lưu ý trong ví dụ trên là giá bán và chi phí bằng đô la là không thay đổi và thường là điều phù hợp trên thực tế tại thời điểm trước và sau phá giá bản tệ, chứ không có chuyện chi phí (giá thành) lại tăng lên như nhiều người diễn giải. Chi phí/giá thành có tăng lên chỉ là khi tính theo tiền đồng mà thôi.
No comments:
Post a Comment