Sunday, 6 April 2025

Thâm hụt thương mại với Mỹ - Hiểu sai thì sao mà làm đúng?

Nhiều người, nhất là từ Việt Nam, diễn giải con số 90% - mức thuế mà Mỹ cáo buộc Việt Nam đánh lên hàng hóa xuất khẩu của họ vào Việt Nam – thành ra mức chênh lệch giữa xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ và nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Bởi vậy, theo họ, muốn giảm chênh lệch này (tức thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam) thì Việt Nam cũng cần phải tăng mạnh nhập khẩu từ Mỹ lên để ngang bằng với mức xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ. Mà như vậy là bất khả thi vì những lý do như hàng hóa của Mỹ đắt quá tầm với của nhiều người Việt Nam, hoặc chỉ có một số ít hàng hóa của Mỹ là có nhu cầu ở Việt Nam..., cho dù Mỹ có sẵn lòng hạ thuế nhập khẩu từ Việt Nam về 0%. Suy ra, Việt Nam không thể làm hài lòng, đáp ứng được yêu cầu của đồng chí Trump!

Hiểu như trên là một sai lầm lớn, đặc biệt nếu những người làm chính sách, đi đàm phán cũng hiểu như vậy.

Như đã nói ở bài trước, con số 90% là kết quả của công thức tính mức thuế đã bao hàm thêm một số biến số, đại lượng khác (bên cạnh nhập khẩu của Mỹ từ đối tác thương mại, xuất khẩu của đối tác thương mại vào Mỹ) để phản ánh đúng hơn con số thuế quan cần phải áp lên đối tác thương mại nhằm đưa thương mại song phương về mức “công bằng” hơn. Ở đây ta không bàn đến tính đúng đắn về học thuật của công thức này.

Con số tính ra từ công thức này như vậy không phải là, mà cũng không phải chỉ phản ánh mỗi thâm hụt xuất nhập khẩu giữa 2 nước. Có thể hiểu rằng con số này cho thấy mức thuế THỰC TẾ mà Việt Nam đã áp lên hàng hóa Mỹ, có thể bao gồm đúng những loại thuế “trá hình” khác Mỹ đã và đang cáo buộc cho Việt Nam, như hàng rào thuế quan, rào cản (phi) thương mại, yếu tố tiền tệ (thao túng tỷ giá), và để hàng hóa của Trung Quốc đội lốt hàng Việt Nam xuất sang Mỹ. (Lưu ý chữ THỰC TẾ ở đây).

Nếu những cáo buộc của Mỹ là sự thật (mà tớ cho rằng khó cãi được) thì hành động đơn phương đề xuất hạ thuế nhập khẩu cho hàng hóa Mỹ vào Việt Nam xuống 0% là không đủ, không có hiệu quả (nhất là trong bối cảnh thuế nhập khẩu danh nghĩa áp cho hàng hóa Mỹ hiện tại không quá cao), khi những cáo buộc vẫn còn nguyên đó, không được giải quyết thích đáng. Hơn nữa, nếu kèm theo đề xuất này là đề xuất Mỹ cũng phải hạ thuế nhập khẩu cho hàng Việt Nam về 0% thì sẽ là... rất không biết người biết ta, càng làm tăng thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam!

Tiếp đó, giả sử Việt Nam đơn phương hạ thuế nhập khẩu hàng hóa của Mỹ về 0%. Khi đó, đúng là không có gì đảm bảo Việt Nam sẽ tăng nhập khẩu từ Mỹ lên đến hàng trăm tỷ USD để cho ngang bằng với mức xuất khẩu sang Mỹ như hiện nay, bởi sức mua, bởi giá bán, bởi nhu cầu và thị hiếu trong nước...

Tuy nhiên, Việt Nam về nguyên tắc chẳng cần phải nhập khẩu từ Mỹ nhiều đến thế. Mục đích Mỹ gây sức ép là để giảm thâm hụt thương mại song phương, thì bản thân việc hạ thuế nhập khẩu cho Mỹ sẽ làm tăng nhập khẩu của Mỹ vào Việt Nam (dù có thể không lớn so với mức thâm hụt 123 tỷ USD hiện nay), làm giảm bớt thâm hụt thương mại của Mỹ. Nhưng đây cũng mới chỉ là một trong số những hành động cần thực hiện.

Những hành động khác, thậm chí có ý nghĩa và hiệu quả nhiều hơn, đó là giải quyết triệt để các cáo buộc khác của Mỹ nói trên.

Cụ thể, nếu khắc phục triệt để được tình trạng hàng Trung Quốc đội lốt hàng Việt Nam xuất sang Mỹ, và giả sử tỷ trọng hàng đội lốt này chiếm mức khiêm tốn là 50% hàng Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ thì tự khắc con số giá trị xuất khẩu 123 tỷ USD của Việt Nam sang Mỹ sẽ giảm đi tới một nửa, chỉ còn gần 62 tỷ USD. Giả sử thêm, nhờ thuế hạ về 0%, nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ tăng gấp đôi từ mức 13 tỷ USD lên 26 tỷ, tức thâm hụt của Mỹ với Việt Nam sẽ chỉ còn ở mức đôi ba chục tỷ USD.

Giả sử thêm Việt Nam thành tâm xóa bỏ triệt để những rào cản thương mại và những gian lận thao túng khác mà Mỹ cáo buộc, nhập khẩu từ Mỹ chắc chắn sẽ tăng đáng kể, mà theo ước tính của Mỹ (được trích dẫn trong một bài viết của tác giả Lê Hồng Hiệp) lên tới ít nhất 18 tỷ USD mỗi năm.

Chưa hết, giả sử thêm Việt Nam cũng phải nghiêm chỉnh khắc phục các cáo buộc gian lận, cạnh tranh không lành mạnh khác trong xuất khẩu của mình sang Mỹ (ví dụ như thế nào thì các đồng chí tự tìm hiểu) thì chắc chắn xuất khẩu của Việt Nam sẽ còn co hẹp lại hơn nữa.

Cộng hiệu ứng giảm xuất khẩu sang Mỹ, tăng nhập khẩu từ Mỹ từ tất cả các yếu tố trên lại thì thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam trở thành khiêm tốn hơn nhiều, hoặc thậm chí  là không đáng kể.

Tóm lại, Việt Nam chẳng cần phải tăng vọt (vô vọng) nhập khẩu từ Mỹ lên hàng chục lần như hiện nay, và việc hạ thuế nhập khẩu từ Mỹ về 0% cũng chỉ là một trong những biện pháp cần làm để Mỹ xem xét lại thực chất mức thuế đối ứng cho Việt Nam, thậm chí không có ý nghĩa lớn như các biện pháp khác nêu trên.

Một điều rút ra quan trọng nữa là không nên mang đề xuất hạ thuế nhập khẩu cho Mỹ vào Việt Nam về 0% như một quân bài mặc cả để đổi lấy việc Mỹ cũng phải làm như vậy (tại sao thì các đồng chí lại tự tìm hiểu, dựa vào những phân tích trên và các bài viết trước đây).

Saturday, 5 April 2025

Lỗi sơ đẳng trong đàm phán thương mại của Việt

Hôm nay xuất hiện thêm một số tin tức đáng chú ý từ Việt Nam, liên quan đến thuế mới của đồng chí Trump dành cho Việt Nam thương mến. Đáng nói nhất là tin từ Bộ Công thương cho biết sự "đáng tiếc" với mức thuế mới này (đương nhiên!), đồng thời biện hộ rằng thì là mà, nào là hàng của Việt Nam không cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp/hàng Mỹ, thậm chí lại có lợi cho Mỹ (ơ hay, ào ạt vào nhiều quá, với giá rẻ quá - chẳng hạn vì phá giá, vì để hàng Tầu đội lốt... thì doanh nghiệp nào, hàng nào của Mỹ còn trụ lại được?). 

Nhưng dẫu sao thì cái rằng thì là mà này vẫn chưa là gì so với cái lỗi sơ đẳng mà bộ này mắc phải. Đó là khi họ nói: "Mức thuế MFN trung bình mà Việt Nam áp đối với hàng hóa nhập khẩu hiện nay là 9,4%. Do đó, mức thuế đối ứng mà Mỹ dự kiến áp cho hàng hóa Việt Nam lên tới 46% là thiếu căn cứ khoa học và thực sự không công bằng, không phản ánh thiện chí và nỗ lực của Việt Nam trong suốt thời gian vừa qua trong việc xử lý tình trạng thâm hụt thương mại giữa hai nước".

Về con số 90% là mức thuế mà phía Mỹ đưa ra cáo buộc Việt Nam đánh lên hàng nhập khẩu từ Mỹ, đây là kết quả của việc rút gọn lại công thức tính toán ra nó của phía Mỹ, trở thành nhập khẩu ròng vào Mỹ chia cho tổng nhập khẩu vào Mỹ từ Việt Nam, nghe có vẻ gì đó sai sai hoặc rất sai, nhưng đây chỉ là sự tình cờ. Vì công thức nguyên bản tính thuế đối ứng của Mỹ còn có các biến số khác, như công thức dưới đây 

Thay đổi mức thuế nhập khẩu cho nước X = (xuất khẩu của Mỹ sang X - nhập khẩu từ X vào Mỹ)/(Epsilon * Phi * Tổng nhập khẩu từ X vào Mỹ) 

Theo đó, Epsilon, biểu thị cho độ co giãn theo giá của nhập khẩu mà Mỹ đặt ở mức 4, và Phi, được sử dụng để biểu thị độ co giãn của giá nhập khẩu đối với thuế quan và được phía Mỹ đặt ở mức 0,25. Vì Epsilon nhân với Phi (4*0.225) thì thành 1, và vô tình biến công thức tính thuế đối ứng của Mỹ cho nước X thành tỷ lệ nhập khẩu ròng vào Mỹ từ X trên tổng nhập khẩu từ X vào Mỹ, để rồi biến nó thành trò cười trong con mắt của nhiều người kể cả có trình độ.

Do không hiểu đúng cách tính toán của Mỹ, Bộ Công thương khơi khơi "phát hiện" ra rằng Mỹ tính sai, mang tính áp đặt đầy bất công với lý do là Việt Nam chỉ áp mức thuế MFN trung bình là 9,4%, chứ lấy đâu ra đến 90%. (Thú nhận là tớ ban đầu đọc sơ mấy bản tin Việt, Anh có trích dẫn cách tính rút gọn này cũng thấy ơ ơ, chỉ đến lúc ngồi viết bài này và bắt đầu tìm đọc kỹ hơn thì mới phát hiện ra bản chất của nó).

Sai sót như thế thì thôi cũng không thể trách cứ quá được, vì ngay cả... tớ lúc đầu cũng sai mà (nhưng nói thế thôi nhé, vì tớ chỉ là kẻ ngoài cuộc, còn Bộ Công thương ăn lương là để chịu trách nhiệm cho những việc như thế này, không được phép sai sót). Cái mà Bộ Công thương đáng trách hơn nữa là thái độ phản ứng như nói ở trên. Nếu ban đầu đã (sai lầm) cho rằng Mỹ đưa ra mức thuế trên là vô cớ, mang tính áp đặt thì phải hiểu rằng thực sự Mỹ đang có thái độ nước lớn, áp đặt cho không chỉ riêng với Việt Nam, và cuộc chơi này thuộc về Mỹ, do Mỹ cầm chịch, muốn chủ ý đặt thuế ở mức bao nhiêu tùy thích, công thức và cách tính chỉ là hình thức cho có, các đối thủ chơi được sát máu thì chơi, e thấy không được thì hãy quay sang mà năn nỉ, xoa dịu như một số nước khôn ngoan khác mới mong bớt thiệ hại. Đằng này lại có thái độ này nọ, đưa ra con số này kia rồi lý luận lọ chai (mà lại sai bét như nói ở đoạn đầu).

Tóm lại, như đã nói ở bài trước, đi thương thuyết mà vẫn ấu trĩ, trình độ yếu kém nhưng lại đầy hoang tưởng về sức mạnh và quyền lực (mềm) thì kết quả sẽ khó mà khả quan được.  





Friday, 4 April 2025

 Bình luận về cuộc gọi của đồng chí Tô Lâm với đồng chí Trump

Có một số đồng chí hỏi tớ về cuộc điện đàm của đồng chí Tô Lâm với đồng chí Trump. Nhìn chung, tớ cũng thấy đây là một phản ứng khẩn, cần thiết, rõ ràng là hơn so với không làm gì hoặc thụ động chờ đợi cấp dưới của mình sang Mỹ thương thuyết. Nhưng có điều là tớ không lạc quan và thở phào như đa phần dư luận.

Nhiều người không để ý rằng đề xuất đưa thuế nhập khẩu về 0 với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ mới chỉ là đề xuất đơn phương của Việt Nam. Mỹ có thể ghi nhận, chấp thuận đề xuất này, nhưng điều này không có nghĩa là Mỹ sẵn lòng, sẵn sàng, sẽ, hoặc có nghĩa vụ hạ thuế nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam xuống mức tương ứng.

Lý do? Đơn giản là chẳng có lý do thỏa đáng để Mỹ sẵn lòng làm vậy. Đây có thể coi như một cuộc thương lượng, mặc cả thương mại song phương, với đồng chí Trump khởi xướng và đồng chí Tô Lâm đáp lại trong bước khởi đầu. Vì là cuộc mặc cả, hai bên đều phải có những quân bài mạnh, đại diện cho việc ai cần ai hơn. Nhưng rõ ràng là trong cuộc chơi này thì Việt Nam cần Mỹ hơn, chứ không phải ngược lại. Để chứng minh ư? Hãy trả lời: Ai xuống nước trước?

Bởi vậy, phản ứng thận trọng cần có trước tiên khi đọc đến những tin tức loại này là hãy lạc quan có chừng mực, hãy hy vọng tối đa rằng Mỹ có thể nương tay, hạ thuế nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam xuống đến, ví dụ, một nửa (23%) là đã quá nhiều, quá tốt, với điều kiện là đồng chí Trump... yêu mến Việt Nam thật sự như ông ta nói, đã nhìn ra rõ tấm chân tình của các đồng chí Việt Nam!

Đó là mới nói đến cơ sở thuế quan có đi có lại, tức Việt Nam tự nguyện hạ thuế xuống 0% và Mỹ đáp lại tấm lòng chân thành của Việt Nam bằng cách hạ thuế của mình xuống một chừng mực nào đó. Nhưng mọi người cũng cần lưu ý rằng mức thuế cắt cổ 46% của Mỹ không chỉ là để trả đũa cho việc Việt Nam đánh thuế cao vào hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ, mà còn bởi những (cáo buộc về) rào cản thương mại và thao túng tiền tệ, và/hoặc cả về việc đã biến Việt Nam thành cơ sở trung chuyển hàng hóa Trung Quốc sang Mỹ.

Việc Mỹ hạ thuế cho Việt Nam chắc sẽ còn phụ thuộc vào việc Việt Nam sẽ cam kết khắc phục các cáo buộc này như thế nào, có thành tâm và chủ động hay không. Mà điều này thì rõ ràng sẽ không thể xảy ra một sớm một chiều. Do đó, tớ dự đoán rằng, sớm nhất là ngày 9/4 này, nếu có nhã ý, Mỹ sẽ chỉ hạ thuế mang tính biểu tượng, cùng với đó là các cam kết, ràng buộc từ phía Việt Nam, rất có thể là từng bước, từng giai đoạn tương ứng với những bước đi cụ thể của mỗi bên. Tớ mà là đồng chí Trump thì tớ rõ ràng không muốn rơi vào tình trạng đồng ý hạ thuế để rồi không lâu sau đó phải tăng trở lại bởi đối phương chưa thấy có chuyển biến thực sự nào sau một thời gian hạn định.

Ngoài ra, còn nhiều vấn đề liên quan đến chuyện đánh thuế và phản ứng cần thiết của Việt Nam mà tớ thấy có thể bàn luận được, khi nào có hứng thì tớ sẽ nói dần dần, hoặc các đồng chí bạn đọc chọn lọc nêu ra. Nhưng xin cảnh báo dư luận một lần nữa, từ lần tớ cảnh báo trước cách đây đến cả chục năm khi đang dấy lên hiệp định TPP, rằng các đồng chí đừng quá tự tin cho rằng Mỹ cần Việt Nam (hơn là ngược lại) để rồi dẫn đến những phản ứng sai lầm, những cú sốc, những nỗi thất vọng đến căm thù. (Các đồng chí có thể tìm lại những bài viết của tớ về TPP, đặc biệt là các bài viết liên quan đến các cuộc phỏng vấn doanh nghiệp Mỹ để biết thêm chuyện này).



Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).