Nhiều người, nhất là từ Việt Nam, diễn giải con số 90% - mức thuế mà Mỹ cáo buộc Việt Nam đánh lên hàng hóa xuất khẩu của họ vào Việt Nam – thành ra mức chênh lệch giữa xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ và nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Bởi vậy, theo họ, muốn giảm chênh lệch này (tức thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam) thì Việt Nam cũng cần phải tăng mạnh nhập khẩu từ Mỹ lên để ngang bằng với mức xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ. Mà như vậy là bất khả thi vì những lý do như hàng hóa của Mỹ đắt quá tầm với của nhiều người Việt Nam, hoặc chỉ có một số ít hàng hóa của Mỹ là có nhu cầu ở Việt Nam..., cho dù Mỹ có sẵn lòng hạ thuế nhập khẩu từ Việt Nam về 0%. Suy ra, Việt Nam không thể làm hài lòng, đáp ứng được yêu cầu của đồng chí Trump!
Hiểu như trên là một
sai lầm lớn, đặc biệt nếu những người làm chính sách, đi đàm phán cũng hiểu như
vậy.
Như đã nói ở bài trước,
con số 90% là kết quả của công thức tính mức thuế đã bao hàm thêm một số biến số,
đại lượng khác (bên cạnh nhập khẩu của Mỹ từ đối tác thương mại, xuất khẩu của đối
tác thương mại vào Mỹ) để phản ánh đúng hơn con số thuế quan cần phải áp lên đối
tác thương mại nhằm đưa thương mại song phương về mức “công bằng” hơn. Ở đây ta
không bàn đến tính đúng đắn về học thuật của công thức này.
Con số tính ra từ
công thức này như vậy không phải là, mà cũng không phải chỉ phản ánh mỗi thâm hụt
xuất nhập khẩu giữa 2 nước. Có thể hiểu rằng con số này cho thấy mức thuế THỰC TẾ
mà Việt Nam đã áp lên hàng hóa Mỹ, có thể bao gồm đúng những loại thuế “trá hình”
khác Mỹ đã và đang cáo buộc cho Việt Nam, như hàng rào thuế quan, rào cản (phi)
thương mại, yếu tố tiền tệ (thao túng tỷ giá), và để hàng hóa của Trung Quốc đội
lốt hàng Việt Nam xuất sang Mỹ. (Lưu ý chữ THỰC TẾ ở đây).
Nếu những cáo buộc
của Mỹ là sự thật (mà tớ cho rằng khó cãi được) thì hành động đơn phương đề xuất
hạ thuế nhập khẩu cho hàng hóa Mỹ vào Việt Nam xuống 0% là không đủ, không có hiệu
quả (nhất là trong bối cảnh thuế nhập khẩu danh nghĩa áp cho hàng hóa Mỹ hiện tại
không quá cao), khi những cáo buộc vẫn còn nguyên đó, không được giải quyết thích
đáng. Hơn nữa, nếu kèm theo đề xuất này là đề xuất Mỹ cũng phải hạ thuế nhập khẩu
cho hàng Việt Nam về 0% thì sẽ là... rất không biết người biết ta, càng làm tăng
thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam!
Tiếp đó, giả sử Việt
Nam đơn phương hạ thuế nhập khẩu hàng hóa của Mỹ về 0%. Khi đó, đúng là không có
gì đảm bảo Việt Nam sẽ tăng nhập khẩu từ Mỹ lên đến hàng trăm tỷ USD để cho ngang
bằng với mức xuất khẩu sang Mỹ như hiện nay, bởi sức mua, bởi giá bán, bởi nhu cầu
và thị hiếu trong nước...
Tuy nhiên, Việt
Nam về nguyên tắc chẳng cần phải nhập khẩu từ Mỹ nhiều đến thế. Mục đích Mỹ gây
sức ép là để giảm thâm hụt thương mại song phương, thì bản thân việc hạ thuế nhập
khẩu cho Mỹ sẽ làm tăng nhập khẩu của Mỹ vào Việt Nam (dù có thể không lớn so với
mức thâm hụt 123 tỷ USD hiện nay), làm giảm bớt thâm hụt thương mại của Mỹ. Nhưng
đây cũng mới chỉ là một trong số những hành động cần thực hiện.
Những hành động khác,
thậm chí có ý nghĩa và hiệu quả nhiều hơn, đó là giải quyết triệt để các cáo buộc
khác của Mỹ nói trên.
Cụ thể, nếu khắc phục
triệt để được tình trạng hàng Trung Quốc đội lốt hàng Việt Nam xuất sang Mỹ, và
giả sử tỷ trọng hàng đội lốt này chiếm mức khiêm tốn là 50% hàng Việt Nam xuất
khẩu sang Mỹ thì tự khắc con số giá trị xuất khẩu 123 tỷ USD của Việt Nam sang Mỹ
sẽ giảm đi tới một nửa, chỉ còn gần 62 tỷ USD. Giả sử thêm, nhờ thuế hạ về 0%, nhập
khẩu của Việt Nam từ Mỹ tăng gấp đôi từ mức 13 tỷ USD lên 26 tỷ, tức thâm hụt của
Mỹ với Việt Nam sẽ chỉ còn ở mức đôi ba chục tỷ USD.
Giả sử thêm Việt
Nam thành tâm xóa bỏ triệt để những rào cản thương mại và những gian lận thao túng
khác mà Mỹ cáo buộc, nhập khẩu từ Mỹ chắc chắn sẽ tăng đáng kể, mà theo ước tính
của Mỹ (được trích dẫn trong một bài viết của tác giả Lê Hồng Hiệp) lên tới ít nhất
18 tỷ USD mỗi năm.
Chưa hết, giả sử thêm
Việt Nam cũng phải nghiêm chỉnh khắc phục các cáo buộc gian lận, cạnh tranh không
lành mạnh khác trong xuất khẩu của mình sang Mỹ (ví dụ như thế nào thì các đồng
chí tự tìm hiểu) thì chắc chắn xuất khẩu của Việt Nam sẽ còn co hẹp lại hơn nữa.
Cộng hiệu ứng giảm
xuất khẩu sang Mỹ, tăng nhập khẩu từ Mỹ từ tất cả các yếu tố trên lại thì thâm hụt
thương mại của Mỹ với Việt Nam trở thành khiêm tốn hơn nhiều, hoặc thậm chí là không đáng kể.
Tóm lại, Việt Nam
chẳng cần phải tăng vọt (vô vọng) nhập khẩu từ Mỹ lên hàng chục lần như hiện nay,
và việc hạ thuế nhập khẩu từ Mỹ về 0% cũng chỉ là một trong những biện pháp cần
làm để Mỹ xem xét lại thực chất mức thuế đối ứng cho Việt Nam, thậm chí không có
ý nghĩa lớn như các biện pháp khác nêu trên.