Bài viết "Khi nền kinh tế làm ra trong 1 năm chưa đủ trả lãi nợ vay" của nhóm chuyên gia độc lập (“các tác giả”) trong và ngoài nước đăng trên TBKTSG số đầu năm 2020 đã vạch ra nguy cơ về cuộc đua tăng lãi suất sẽ dẫn đến khủng hoảng nợ tại Việt Nam trong tương lai. Tuy nhiên, do bài viết có một số điểm chưa chính xác nên khó có thể dựa vào đó để đi đến kết luận như trong bài. Xin được góp ý với các tác giả về những điểm chưa chính xác này.
Trước tiên, cần nói ngay rằng việc so sánh lãi suất giữa các nước như của các tác giả là không có nhiều ý nghĩa, nhất là khi so sánh lãi suất của Việt Nam với lãi suất của một nước đã phát triển như Mỹ. Để minh họa rõ hơn, với sự khác biệt đáng kể về lãi suất của ngay cả các nền kinh tế đã phát triển như Nhật, Singapore, Mỹ, châu Âu..., là những nơi có lãi suất biến thiên trong phạm vi rộng từ mức âm, cận 0, cho đến dương đáng kể, liệu chúng ta có thể kết luận được rằng các nền kinh tế có lãi suất cao là có vấn đề với chuyện nợ nần (của doanh nghiệp)? Ngược lại, lãi suất cao ở Việt Nam không phải là ngoại lệ nếu so sánh với lãi suất của những nước đang phát triển như Ấn Độ, Indonesia.
Thứ hai, về mức lãi của ngân hàng ở Việt Nam, các tác giả lấy lãi suất cho vay cơ bản trừ đi lãi suất tiền gửi không kỳ hạn để tính ra ngân hàng có thể lãi 4,5%. Đồng thời, các tác giả cho rằng trong khi lạm phát là 1,65% thì ngân hàng lãi thật 2,8%.
Tính toán trên chưa chính xác ở chỗ khi tính mức lãi từ hoạt động cho vay của ngân hàng, người ta thường dùng hệ số NIM (Net Interest Margin), là tỷ lệ phần trăm của chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi phải trả chia cho tài sản sinh lãi của ngân hàng (= (Thu nhập lãi – Chi phí lãi)/Tài sản sinh lãi = Thu nhập lãi thuần/Tài sản sinh lãi). Bởi vậy, mức lãi của ngân hàng không được tính đơn giản như các tác giả đã nêu và không nhất thiết là 4,5%.
Ngoài ra, mức lãi của ngân hàng 4,5% (nếu có như trên) không bao giờ được trừ đi mức lạm phát để tính ra “lãi thật”. Bản thân NIM đã là “lãi thật” hiểu theo nghĩa hẹp là chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt động cho vay và chi phí nguồn vốn huy động để cho vay (tính trên tài sản sinh lãi). Hoạt động của ngân hàng thương mại thông thường phần lớn là dùng uy tín, tín nhiệm của mình để huy động vốn rồi đem cho vay ngay theo kiểu “tay không bắt giặc” để kiếm chênh lệch thì đâu cần phải xét đến lạm phát như khi tính toán các chỉ số khác, ví dụ, GDP?
Cùng trên ý nghĩa này thì dù lạm phát có lên đến bao nhiêu phần trăm chăng nữa, ngân hàng khó mà lỗ nặng trong hoạt động cho vay (với giả định là ngân hàng vẫn phải xét duyệt cho vay cẩn thận, không làm tăng thêm nợ xấu), trái với kết luận của các tác giả rằng do chạy đua lãi suất, đẩy lãi suất huy động lên 9% trong khi cho vay ưu đãi là 10% và lạm phát dù chỉ là 3% thì ngân hàng lỗ nặng.
Thứ ba, lý giải tại sao lãi suất ở Việt Nam cao, các tác giả viện dẫn lý thuyết của Modigliani-Miller, cho rằng lãi suất tùy thuộc chính vào mức độ rủi ro (của ngân hàng/nền kinh tế?). Tuy nhiên, đây là một diễn giải và áp dụng quá mức/không thích hợp. Bởi lý thuyết Modigliani-Miller chỉ nói rằng giá trị của một doanh nghiệp không phụ thuộc vào cấu trúc vốn của doanh nghiệp đó, bất kể doanh nghiệp này vay nợ nhiều hay ít hay có tỷ trọng nợ trong tổng nguồn vốn cao hay thấp. Nói cách khác, giá trị của một doanh nghiệp có vay nợ là bằng với giá trị của doanh nghiệp không có vay nợ, nếu lợi nhuận hoạt động và triển vọng của doanh nghiệp là như nhau. (1) Như vậy, thậm chí nếu áp dụng lý thuyết này vào chuyện nợ nần của nền kinh tế Việt Nam thì có thể nói ngược lại với kết luận của các tác giả rằng dù nền kinh tế Việt Nam đang có tỷ lệ nợ/GDP cao (và/hoặc đang tăng lên) nhưng “giá trị” của nền kinh tế Việt Nam không nhất thiết vì thế mà bị ảnh hưởng tiêu cực, hay rủi ro của nền kinh tế Việt Nam không nhất thiết vì thế mà (đang tăng) cao.
Thứ tư, việc Moody’s hạ triển vọng xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam gần đây (chứ không phải là hạ xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam như các tác giả nói) không liên quan gì đến những rủi ro/bất cập mà các tác giả nêu gồm khả năng cho vay bị hạn chế (nhất là cho vay bất động sản) kèm với việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tăng tỷ lệ trích lập phòng ngừa rủi ro cho vay bất động sản làm tái hiện cơn sụt giá bất động sản như các năm 2009-2012. Ngoài ra, các tác giả đã không chính xác vì thị trường bất động sản hiện nay đang không hề có “cơn sụt giá” nào cả, nếu không muốn nói là ngược lại.
Thứ năm, không rõ các tác giả lấy nguồn ở đâu, nhưng cứ cho là nợ của khu vực phi tài chính là 13,8 triệu tỷ đồng, và bằng 276% GDP. Dù có tỷ lệ đòn bảy cao như vậy nhưng không thể vì thế mà kết luận rằng GDP tăng 7% trong khi trả lãi 9% (bằng lãi suất danh nghĩa 12% trừ lạm phát 3%) có nghĩa là GDP làm ra một năm không đủ để trả lãi nợ.
Lập luận trên sai vì GDP có thể hiểu là thu nhập thuần cuối cùng của nền kinh tế, sau khi đã trừ đi những chi phí đầu vào, gồm tiền trả nợ lãi và gốc. Bởi vậy, GDP tăng lên 7% thì có nghĩa là quy mô nền kinh tế đã tăng ròng thêm 7% bất kể trả nợ và lãi vay tăng lên bao nhiêu phần trăm. Thêm một điểm bất hợp lý nữa là không thể so sánh mức trả lãi thuần (chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và lạm phát, như cách tính của các tác giả) với GDP, tương tự như không thể so sánh chi phí vay với lợi nhuận của doanh nghiệp.
Các tác giả còn có một số điểm chưa chính xác khác như cho rằng NHNN chịu trách nhiệm (quản lý) nợ doanh nghiệp nói chung, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, theo Luật quản lý nợ công; hay chuyện Cocobay không trả được lãi theo cam kết là 12% là cảnh báo ban đầu cho sự phá sản của doanh nghiệp. (Thực ra việc không trả được lãi này nên hiểu chủ yếu là hiện tượng riêng lẻ, là kết quả/hậu quả marketing của doanh nghiệp mà thôi).
(1) https://efinancemanagement.com/financial-leverage/capital-structure-theory-modigliani-and-miller-mm-approach
No comments:
Post a Comment