Wednesday 17 June 2020

Cần sửa quy định về sự kiện bất khả kháng trong Bộ luật dân sự (Bài đăng trên TBKTSG, báo giấy, 11/6/2020)


Khoản 1 điều 156 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.”

Khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, khoản 2 điều 351 của Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Trong đại dịch Covid-19 nhiều chủ thể kinh tế ở Việt Nam đã xem xét áp dụng quy định về sự kiện bất khả kháng được nêu ở trên để miễn trừ các nghĩa vụ trong hợp đồng giao kết của mình với các đối tác, chẳng hạn như nghĩa vụ thanh toán tiền thuê mặt bằng đầy đủ và đúng hạn trong thời gian xảy ra dịch Covid-19 và Chính phủ ban hành lệnh cách ly xã hội làm cho nhiều hoạt động kinh tế bị đình trệ, ảnh hưởng nghiêm trọng.

Tuy nhiên, qua thực tế áp dụng, quy định này của Bộ luật dân sự đã cho thấy những tồn tại cần phải được sửa đổi cho phù hợp.

Quy định rõ chủ thể

Trước tiên, hãy phân tích câu: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.”

Ai là chủ thể trong câu này? Nếu đó là các bên của hợp đồng thì đúng là các chủ thể này có thể không lường trước được và không thể khắc phục được sự kiện bất khả kháng, như dịch Covid-19. Nhưng nếu là một bên thứ ba như Chính phủ mà hiện nay một số doanh nghiệp bán lẻ, dịch vụ đang kiến nghị xác nhận Covid-19 là sự kiện bất khả kháng thì... chưa chắc! Bởi Chính phủ vẫn hoàn toàn có thể lường trước được và khắc phục được dịch Covid-19, như thực tế đã và đang chứng minh, và, do đó, ít nhất là đối với Chính phủ, dịch Covid-19 không phải là, khó có thể coi được là sự kiện bất khả kháng.

Như vậy, ít ra thì câu trên cần phải được sửa lại, bổ sung thêm chủ thể cụ thể (là các bên tham gia ký kết hợp đồng giao kết) để tránh gây nhầm lẫn, diễn giải tùy nghi.

Phải được hiểu, diễn giải theo một cách duy nhất

Tiếp theo, đặt câu trên trong bối cảnh cụ thể là dịch Covid-19 xảy ra và tác động của nó lên hợp đồng thuê mặt bằng giữa doanh nghiệp bán lẻ và đối tác cho thuê mặt bằn để cho cụ thể và dễ hiểu. Nếu diễn giải một cách chặt chẽ theo ngữ nghĩa thì câu này được hiểu là các bên trong hợp đồng thuê mặt bằng không thể lường trước được sự nổ ra dịch Covid-19 vào thời điểm ký kết hợp đồng; và khi dịch Covid-19 xảy ra, các bên trong hợp đồng không thể khắc phục được sự kiện bất khả kháng này – dịch Covid-19. 

Đương nhiên là bên thuê mặt bằng và bên cho thuê không thể khắc phục được dịch Covid-19 (dù có làm cách gì và cố gắng đến đâu). Nhưng nếu chỉ có vậy thì không chỉ dịch Covid-19 mà còn nhiều sự kiện khách quan khác xảy ra, ví dụ đơn giản như trời mưa, mà các bên trong hợp đồng thuê mặt bằng không thể khắc phục được (không thể ngăn cho trời không mưa). Vì vậy, nếu cứ vận dụng cách hiểu cứng nhắc từ câu cú trong quy định này của Bộ luật dân sự 2015 thì bên thuê mặt bằng có thể viện dẫn đủ thứ lý do khách quan nhưng... “trời ơi đất hỡi” để làm tiền đề cho kích hoạt điều khỏa về sự kiện bất khả kháng.

Do đó, câu trên cần phải được hiểu một cách phù hợp thực tế hơn. Cụ thể là dịch Covid-19 đã gây ra những hậu quả, gồm cách ly xã hội, làm cho một trong các bên trong hợp đồng không thể thực hiện được các nghĩa vụ, trách nhiệm của mình được quy định trong hợp đồng (gồm trả tiền thuê mặt bằng đầy đủ và đúng hạn), dù bên vi phạm này đã làm mọi cách có thể để khắc phục được các hậu quả của dịch Covid-19, gồm cách ly xã hội.   

Nói cách khác, quy định sự kiện bất khả kháng trong Bộ luật dân sự 2015 đang tạo ra những cách hiểu, diễn giải khác nhau, tùy theo ý chí của người áp dụng. Đây là điều tuyệt đối cần tránh đối với các quy định pháp luật nền vì thế cần phải sửa đổi lại sao cho chỉ dẫn đến một cách hiểu duy nhất và đúng đắn.

Quy định trong hợp đồng vẫn phải là... trên cả “pháp luật”!

Một tồn tại khác nằm ở quy định ở khoản 2 điều 351: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Quy định với chữ “hoặc” như thế này sẽ làm nảy sinh trường hợp các quy định khác của pháp luật sẽ 
thay thế các quy định trong hợp đồng và tạo nên tư duy rằng các quy định pháp luật chung có hiệu lực hơn hợp đồng. Cụ thể, giả sử doanh nghiệp bán lẻ, dịch vụ coi dịch Covid-19 là sự kiện bất khả kháng và được đồng thuận bởi bên đối tác trong hợp đồng thuê mặt bằng. Tuy nhiên, giả sử tiếp trong hợp đồng có điều khoản quy định bên thuê phải thông báo trước một tuần cho bên cho thuê bằng văn bản về ý định áp dụng điều khoản sự kiện bất khả kháng để không trả tiền thuê đầy đủ, đúng hạn, nhưng bên thuê đã không tuân thủ điều khoản này. Như vậy, bên thuê sẽ không được áp dụng điều khoản sự kiện bất khả kháng nếu căn cứ vào hợp đồng.

Nhưng do Bộ luật dân sự 2015 vốn không có điều khoản nào quy định để áp dụng sự kiện bất khả kháng thì trước hết các bên vẫn phải tuân thủ đúng các quy định trong hợp đồng nên bên thuê mặt bằng hoàn toàn có quyền viện dẫn quy định tại khoản 2 điều 351 rằng pháp luật (tức Bộ luật dân sự) có quy định khác, cho phép họ không phải chịu trách nhiệm dân sự (không trả tiền thuê mặt bằng), dù họ không tuân thủ quy định trong hợp đồng (không cần phải thông báo cho bên cho thuê).

Tất nhiên là sự bất đồng trong vận dụng các quy định này sẽ dẫn đến sự kiện cáo ra tòa và phán quyết rất có thể là có lợi cho bên cho thuê mặt bằng, nhưng nó lại một lần nữa cho thấy sự cần thiết phải sửa đổi lại quy định về sự kiện bất khả kháng trong Bộ luật dân sự 2015.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).