Wednesday 15 March 2023

Các ngân hàng Việt Nam có sụp đổ giống ở Mỹ vì huy động ngắn hạn lại đem đầu tư dài hạn?

Các vụ sụp đổ mới đây của một số ngân hàng Mỹ đã được một vài đồng chí chuyên gia nội địa liên hệ với Việt Nam và cảnh báo nguy cơ đổ vỡ tương tự, bởi có vài điểm tương đồng.

Điểm tương đồng hay được nói đến là ngân hàng 2 nước đều “thích” huy động ngắn hạn nhưng lại cho vay dài hạn. Cụ thể hơn, các đồng chí chuyên gia nội địa chỉ ra rằng ngân hàng SBV của Mỹ huy động tiền gửi chủ yếu của các startup và đem đầu tư vào trái phiếu chính phủ Mỹ hoặc chứng khoán nợ dài hạn có thu nhập cố định. Tương tự, ở Việt Nam, các đồng chí chuyên gia chỉ ra tiếp, có nhiều ngân hàng cho vay bất động sản nhiều, thậm chí lên đến 70% tổng dư nợ, 50% tổng tài sản v.v...

Cái sai một cách rất ấm ớ của các đồng chí chuyên gia nội địa ở điểm trên là nghĩ rằng đầu tư vào chứng khoán nợ và trái phiếu là đầu tư dài hạn. Đúng là các loại chứng khoán này có thể có kỳ hạn dài hàng nhiều năm, 2, 5, 10, 30 năm nhưng không có nghĩa là đầu tư mua và nắm giữ chúng là phải theo chúng đến hết kỳ hạn dài lê thê như thế. SBV hay bất cứ ngân hàng nào, nhà đầu tư nào, đều luôn có thể bán các loại chứng khoán này bất cứ lúc nào thích/cần, nên thực ra các khoản đầu tư này của họ lại chính là đầu tư ngắn hạn/không kỳ hạn thì đúng hơn.

Cái mà các ngân hàng, nhà đầu tư thường quan tâm là tính thanh khoản và an toàn, nên không phải tự nhiên mà trong danh mục đầu tư của họ có một tỷ trọng lớn là trái phiếu chính phủ hoặc các loại chứng khoán được phát hành bởi các tổ chức có xếp hạng tín nhiệm cao, để cần bán lúc nào thì bán được ngay và với giá tốt nhất có thể (chứ không kiểu như hàng ế, hàng thải).

Còn chuyện bán đi và có lãi hay lỗ lại là chuyện khác nhé. Trái phiếu chính phủ hay chứng khoán nợ này kia đều là hàng hóa, và đương nhiên là giá cả sẽ lên xuống từng phút một, nên chuyện lỗ lãi là chuyện... hên xui.

Và vì thế mới có nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro, hedging, để giảm thiểu rủi ro giá bán thấp hơn giá mua. Có điều là chẳng có bữa trưa nào miễn phí nên muốn hedging thì lại phải tốn (một mớ) tiền và cũng không hoàn toàn thoát được hết mọi rủi ro. Do đó, cũng không phải vô lý khi SBV hay nhiều nhà đầu tư đã chọn không hoặc hedging không đáng kể các khoản đầu tư của mình.

Thật không may cho họ là rủi ro lại xảy ra ngay đối với họ, trong thời điểm và hoàn bất ngờ (so với dự tính của họ), dẫn đến phải/bị đóng cửa, đơn giản thế thôi chứ đâu có liên quan gì đến chuyện huy động ngắn hạn cho vay dài hạn như các đồng chí chuyên gia nội địa tưởng tượng ra.

Cái sai nữa là các đồng chí chuyên gia nội địa lại ví von đầu tư vào trái phiếu chính phủ với đầu tư vào bất động sản dài hạn. Như trên đã nói, người ta đầu tư vào trái phiếu chính phủ là bởi tính thanh khoản và an toàn của nó (Chính phủ không thể nào (để) vỡ nợ, mất khả năng thanh toán trái phiếu của mình). Còn đầu tư vào bất động sản thì đương nhiên ai cũng biết là lúc cần thì không chắc đã bán (thanh khoản) được, hoặc bán được với giá tốt.

Bởi vậy, sẽ là rất ngớ ngẩn khi lập luận rằng các ngân hàng Việt Nam cũng đang mắc sai lầm tương tự của SBV khi đem vốn huy động ngắn hạn đầu tư vào bất động sản dài hạn. Như đã nói, tuy SBV đầu tư vào trái phiếu hay chứng khoán nợ nhưng đó không phải là tài sản bất động như... bất động sản mà các ngân hàng Việt Nam ưa thích.

Cái sai thứ ba là các đồng chí chuyên gia nội địa dường như chỉ nhìn từ tỷ lệ cho vay bất động sản lên đến 50% tổng tài sản hay 70% tổng dư nợ của một ngân hàng để phán rằng ngân hàng Việt Nam đang dùng quá mức vốn huy động ngắn hạn cho vay dài hạn mà không cẩn trọng chí ít là đưa ra các số liệu chứng mình rằng (phần lớn) các ngân hàng này đang vi phạm ít nhất một chỉ số là hạn mức vốn huy động ngắn hạn dùng cho vay dài hạn mà Ngân hàng Nhà nước đã quy định. Rất có thể là tuy cho vay bất động sản nhiều như vậy nhưng nguồn vốn cho vay này là nguồn vốn dài hạn và, do đó, các ngân hàng này đã không vi phạm quy định này (đơn giản là nếu vi phạm thường xuyên và lâu dài thì chắc NHNN đã không để yên).

Đúng là phát mệt với các bố chuyên gia nhà ta!

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).