Thursday 28 July 2011

Tớ có đồng minh rồi!!!

Nhân đọc bài báo dưới đây của TBKTSG, mới thấy quý, ở cái chỗ là có lẽ ngoài tớ ra thì từ trước đến nay chỉ có mỗi bài viết này là nêu ra một vài ý kiến trùng lập với của tớ về chuyện doanh nghiệp và cả một số ông nhà nước  kêu loạn lên vì lãi suất cao làm cho doanh nghiệp điêu đứng, phá sản mà thực tế không hẳn là vậy. Nhưng lại buồn thay cho TBKTSG, cũng ngay trong một tờ báo, mà ở bài sau của tác giả Hải Lý (tớ sẽ viết riêng ở một entry khác tiếp sau đây), chuyện lãi suất cao được mang ra phê phán rồi tác giả còn bày cách làm thế nào để hạ lãi suất trong lúc lạm phát chưa hề có dấu hiệu suy giảm rõ ràng. Cái mâu thuẫn này làm cho tớ khẩn thiết kiến nghị ban biên tập TBKTSG cần phải xem xét lại lập trường của mình sao cho thống nhất, vì chí ít TBKTSG cũng là một tờ báo có uy tín với đội ngũ biên tập và chuyên gia tư vấn mạnh nhất trong làng truyền thông Việt Nam hiện nay. Xin tránh tình trạng như nhiều bài viết của phóng viên ở nhiều tờ báo, đầu bài thì phê phán một vấn đề nào đó, nhưng lòng vòng thế nào đến cuối bài lại viết làm cho người ta hiểu thành kêu gọi và ủng hộ cho vấn đề đó, chung quy chỉ bởi người viết mà chẳng hiểu mình đang viết cái gì.
---------------------------------------------------------------
Doanh nghiệp “chết” liệu có phải do lãi suất cao?
Thủy Triều
Thứ Năm,  28/7/2011, 17:28 (GMT+7)

(TBKTSG Online) - Mặc dù hội nghị mang tên “Đầu tư 2011- 2012: Cơ hội cho ai?” nhưng hầu hết các diễn giả đều đề cập đến những vấn đề nóng bỏng của nền kinh tế vĩ mô, và một vấn đề nóng nhất được bàn đến là liệu đã đến lúc để giảm lãi suất hay chưa và yếu tố này đang ảnh hưởng thế nào đến khu vực doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thực sự khó?
Tiến sĩ Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho rằng từ sau khi ban hành Nghị quyết 11 Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp quyết liệt nhằm ổn định kinh tế vĩ mô mà trong đó có việc siết chính sách tiền tệ, vốn đang bị cho là gây ảnh hưởng nặng nề lên các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ông Thành cho biết “Nhìn vào các chỉ số vĩ mô 6 tháng đầu năm, tôi thấy sự kêu gào của các doanh nghiệp có phần hơi quá!”. GDP 6 tháng tăng 5,6%, nhập khẩu vẫn tăng mạnh cho thấy người dân vẫn đầu tư, tiêu xài, trong khi sản lượng công nghiệp 6 tháng đầu năm tăng 14,3% cho thấy doanh nghiệp vẫn có sản xuất, ông Thành nói.
Nếu chỉ tính tăng trưởng tín dụng 20% cho năm nay thì số vốn tuyệt đối cho nền kinh tế sẽ là 25 tỉ đô la Mỹ trong năm nay. “Nếu không tính cho bất động sản và chứng khoán, liệu nền kinh tế thực của Việt Nam có thể hấp thụ con số này?”, ông Thành đặt ra câu hỏi.
Ông Thành cho rằng lạm phát theo tháng của Việt Nam đã có xu hướng giảm, nhưng lạm phát theo năm vẫn cao, ông cho rằng mức đỉnh sẽ vào khoảng 22%, sau đó đi ngang và giảm xuống vào cuối năm. “Con số không quan trọng mà quan trọng là xu hướng của lạm phát, và điều này thì phụ thuộc vào việc Chính phủ có vượt qua được các áp lực để kiên trì với Nghị quyết 11 hay không. Nếu không, chúng ta sẽ còn phải trả giá cao hơn gấp nhiều lần so với việc tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 5,6%”, ông Thành nói.
Ông cho rằng lãi suất chắc chắn sẽ còn cao vì Việt Nam đang phải chống lạm phát và “tôi nghĩ doanh nghiệp vẫn có khả năng sống qua 4 tháng nữa”.
Với các phân tích sâu hơn, ông Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, cho rằng “kiềm chế lạm phát phải là một công cuộc được thực hiện lâu dài chứ không phải có thể kiềm lạm phát tốc lực trong vài tháng, để rồi chính sách điều hành rơi vào tình huống siết chặt quá rồi lại nới lỏng”, ông Nghĩa nói.
Ông Nghĩa cho biết 6 tháng đầu năm tăng trưởng cung tiền là 3% tức khoảng 78.000 tỉ đồng nhưng một nửa trong số này đã đi vào trái phiếu Chính phủ vì phần lớn người mua trái phiếu chính phủ là các ngân hàng, trong khi nửa còn lại là vào tín dụng, do vậy tiền đồng trở nên khan hiếm đẩy lãi suất lên cao.
Không quá lạc quan như ông Thành, ông Nghĩa cho rằng hiện các doanh nghiệp đang thực sự gặp khó khăn rất lớn. Theo khảo sát của ủy ban, 100 doanh nghiệp sản xuất kể cả xuất khẩu hiện đang có lượng hàng tồn kho rất cao, và khảo sát 130 doanh nghiệp niêm yết cho thấy bảng cân đối tài sản của các doanh nghiệp này hiện rất xấu.
Nếu việc thắt chặt tiền tệ vẫn còn tiếp tục như hiện nay thì nền kinh tế Việt Nam có thể rơi vào tình trạng lạm phát và đình đốn sản xuất, và tăng trưởng GDP quí 3, quí 4 sẽ dưới 5% chứ không phải 6%- 6,5% như Chính phủ dự kiến, ông Nghĩa nhận định. Ông cũng cho rằng tiền đề để lãi suất có thể giảm hiện nay là có vì lãi suất liên ngân hàng lẫn lãi suất trái phiếu Chính phủ đều đã giảm. Tuy nhiên, ông cũng cho biết lãi suất có thể giảm nhưng không thể giảm mạnh.
Lãi suất không phải nguyên nhân căn bản
Đi sâu sát hơn với tình hình của các doanh nghiệp, ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc ngân hàng Techcombank, chia sẻ một góc nhìn khác về lãi suất. Techcombank hiện đang phục vụ 50.000 doanh nghiệp và trong đó chỉ có 10%- 15% số doanh nghiệp có quan hệ một cách thường xuyên với ngân hàng.
Ngân hàng đã có một thống kê nhỏ trong số các khách hàng của mình, 70% các doanh nghiệp hiện đang gặp khó khăn, và 30% trong số 70% doanh nghiệp này đang ở mức rất rất khó khăn cần phải đưa vào chương trình kiểm soát đặc biệt. Tuy nhiên, vấn đề lãi suất chỉ là một trong những yếu tố làm trầm trọng hóa tình trạng doanh nghiệp hiện nay chứ không phải là nguyên nhân căn bản, mà nguyên nhân căn bản là việc mất cân đối từ gốc và sự thiếu tập trung trong hoạt động của doanh nghiệp.
“Hầu hết các doanh nghiệp có cơ cấu về vốn rất mong manh. Các doanh nghiệp tư nhân có vốn chủ sở hữu trên tổng vốn hoạt động ở mức 15%-20%, trong khi doanh nghiệp nhà nước, mức này chỉ là 10%”, ông Vinh nói. Thêm vào đó, cấu trúc vốn của các doanh nghiệp rất bấp bênh, hơn 60% doanh nghiệp mất cân đối về vốn tức lấy quá nhiều vốn ngắn hạn đem đầu tư trung dài hạn, và đa số doanh nghiệp đều đầu tư ngoài ngành. Có hơn 90% doanh nghiệp đều có dính dáng ít hay nhiều đến bất động sản, ông Vinh nói.
Ông cho biết chỉ có 60% vốn của doanh nghiệp là phục vụ cho hoạt động chính, cho nên khi lãi suất tăng cao đến 20% thì mức lãi phải trả là cho 100% khoản vay trong khi chỉ có 60% vốn là sử dụng có hiệu quả, nên có khi lãi suất thực doanh nghiệp phải gánh lên đến 30%.
Do vậy, theo ông Vinh, không phải lãi suất hạ thì doanh nghiệp sẽ tốt hơn, mà cái chính là các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay cần phải nhìn lại mình, củng cố lại hoạt động, cơ cấu vốn, và chiến lược để có thể phát triển tiếp trong giai đoạn tới.

1 comment:

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).