07:41 | 27/11/2011
Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được xác định là một trong 3 yếu tố gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô và vì thế chúng đã được đưa vào thành một bộ phận quan trọng của chương trình tái cấu trúc kinh tế.
Thực ra, như chúng ta đã đề cập ở số báo trước, tái cấu trúc doanh nghiệp về bản chất không phải là hiện tượng mới. Tái cấu trúc DNNN thực tế đã được bắt đầu từ đầu thập niên 90 với tên gọi là đổi mới và sắp xếp lại DNNN thông qua các biện pháp giải thể, cho thuê, sáp nhập, cổ phần hóa, xây dựng thành các tổng công ty, rồi tập đoàn, rồi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên v.v...
Cho đến nay, mặc dù con số DNNN còn tồn tại chỉ vào khoảng 1.500 doanh nghiệp với 12 tập đoàn kinh tế nhà nước, chúng vẫn nắm một nguồn lực lớn của đất nước và chi phối thị trường trong nước ở nhiều lĩnh vực nhưng lại hoạt động rất kém hiệu quả - những thực tế đã được nêu đầy đủ trên các phương tiện thông tin đại chúng mà chúng ta không cần phải nhắc lại ở đây.
Vậy đâu là gốc rễ của vấn đề kém hiệu quả, gây bất ổn kinh tế vĩ mô từ các DNNN, để từ đó mới nảy sinh nhu cầu tái cấu trúc chúng? Nếu đã hiểu được các gốc rễ rồi thì liệu chúng ta có dám cắt bỏ những cái gốc rễ đó để cho quá trình tái cấu trúc thành công hay không?
Gốc rễ đầu tiên là sự nhập nhằng chức năng kinh doanh thuần túy như một doanh nghiệp thực thụ trong nền kinh tế thị trường, và chức năng được gọi một cách khá bất cẩn là “ổn định kinh tế vĩ mô”, hay đôi khi còn được gọi là “nhiệm vụ chính trị”, vốn thường được hiểu một cách đại khái, theo quy định bất thành văn, là phải làm những việc mà ông chủ sở hữu của nó, nhà nước, mà người đại diện là Chính phủ chỉ định phải làm một cách hoàn toàn theo mệnh lệnh hành chính.
Tất nhiên, khi đã phải đóng một lúc 2 vai có lợi ích xung đột với nhau thì rốt cuộc chẳng vai nào sẽ ra cái gì. Và thực tế đúng là vậy. Chưa nói đến chuyện DNNN còn không bỏ lỡ cơ hội dùng cái vai “nhiệm vụ chính trị” để làm bình phong che giấu những hoạt động sai trái và cái cớ để đổ lỗi cho kết quả kinh doanh yếu kém của mình mà không hiếm khi là do sự kém cỏi của đội ngũ quản lý.
Về phía Chính phủ, vì phải để DNNN kinh doanh có lãi hòng lấy đó để thực hiện các “nhiệm vụ chính trị” nên buộc phải luôn ưu tiên và tạo điều kiện tối đa bằng các ưu đãi vật chất và cơ chế “đặc thù” cho các DNNN. Vì thế mới có chuyện được ưu tiên rót vốn ngân sách, vay vốn ngân hàng hoặc trái phiếu Chính phủ với lãi suất thấp, được cấp đất, xây dựng cơ sở hạ tầng sẵn, độc quyền hoặc gần như độc quyền trong những lĩnh vực hoạt động của mình và hàng loạt cơ chế dành riêng cho “con cưng” khác, mà rốt cuộc là khu vực doanh nghiệp tư nhân và FDI, và toàn bộ nền kinh tế phải gánh chịu. Điều đáng nói hơn là DNNN ra sức khai thác những nguồn lợi này cho lợi ích riêng của họ.
Như thế, việc đầu tiên cần làm với tái cấu trúc DNNN là phải quyết định xem liệu chúng ta có dám chấp nhận để DNNN chỉ đơn thuần là doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thuần túy hoạt động theo đuổi lợi nhuận như bất kể doanh nghiệp nào khác trong một nền kinh tế thị trường hay không? Còn nếu vẫn muốn có các doanh nghiệp để đảm đương các việc công ích thì hãy biến chúng thành công ích phi lợi nhuận đơn thuần. Hoặc tốt hơn nữa là nhà nước sẽ thuê/đặt hàng các DNNN (lúc này hoạt động như một doanh nghiệp thông thường) và/hoặc các doanh nghiệp tư nhân, FDI, liên doanh v.v... thực hiện những việc công ích này, với nguồn kinh phí được trích ra từ chính phần kinh phí đã tiết kiệm được do không phải rót vốn, bù lỗ cho (hoặc cắt giảm phần giao nộp, đóng góp theo nghĩa vụ) của DNNN khi bắt chúng phải khoác thêm cái vai “nhiệm vụ chính trị”. Đương nhiên là lúc này chuyện thuê sẽ phải được làm công khai và minh bạch để không còn chuyện DNNN thì sẽ được ưu tiên hưởng lợi từ các đơn đặt hàng của nhà nước.
Gốc rễ tiếp theo ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của các DNNN xuất phát từ chủ trương biến chúng thành những “quả đấm thép” với ước mong lãng mạn là chúng có thể lớn mạnh như Thánh Gióng đủ sức cạnh tranh với thế giới. Cũng tương tự như với “nhiệm vụ chính trị”, chức năng “quả đấm thép” này dẫn đến hàng loạt những ưu tiên, ưu đãi để mong chúng lớn mạnh nhanh chóng, mà Vinashin là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, “quả đấm thép” này lại được gắn vào cơ thể tham lam nhưng kém cỏi, để rồi chỉ, như có người ví von, đấm lại chính chúng ta.
Sẽ có người biện hộ rằng nếu không có những “con sâu” như những bị cáo vụ Vinashin thì Vinashin sẽ là một điển hình thành công cho mô hình “quả đấm thép”. Hãy khoan nói đến những yếu tố về cơ chế, con người và tư duy vốn tất yếu sẽ tạo ra những con sâu như vậy, không sớm thì muộn, mà để thay đổi được những yếu tố này thì cũng tương đương với việc xóa bỏ luôn mô hình kiểu Vinashin. Mô hình xây dựng các “quả đấm thép” từ con số 0 hoặc từ những mảnh chắp vá trong bối cảnh hiện thời ở Việt Nam và trên thế giới, và trong mối quan hệ giữa Việt Nam với thế giới thông qua các thỏa thuận song phương và đa phương hoàn toàn khác xa so với cũng mô hình đó (chaebol) ở những nền kinh tế như Hàn Quốc, Singapore trong bối cảnh cách đây 3, 4 thập kỷ. Do đó, cần nghĩ rằng cái gì thành công trong quá khứ thì không nhất thiết sẽ thành công trong tương lai. Trên hết, như nuôi dạy một đứa con cho khỏe mạnh, tử tế, hãy để DNNN tự bò, tự đi bằng đôi chân của mình. Nghĩ rộng ra, tuy môi trường kinh doanh còn rất khó khăn và bất bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân mà hiện nay đã có không ít doanh nghiệp tư nhân vươn lên qua mặt không ít DNNN ở Việt Nam. Điều này tự nó nói lên rằng sự bao bọc không phải là điều kiện cần cho sự thành công.
Khi đã nhận thức được như trên, việc cần làm tiếp theo trong chuyện tái cấu trúc là phải trả lời dứt khoát được câu hỏi liệu chúng ta có dám chấp nhận bỏ đi cái chủ trương này để cắt đi cái nguồn gốc gây ra bệnh tật cho DNNN không?
Gốc rễ thứ ba cho căn bệnh của DNNN là sự chi phối của các nhóm lợi ích. Không ít DNNN, tập đoàn, tổng công ty là sân sau của, hoặc bị chi phối bởi một nhóm lợi ích nào đó, được dựng nên để biến thành công cụ tư lợi cho nhóm lợi ích đó, tất nhiên vẫn dưới những chiêu bài như “quả đấm thép” hoặc khiêm tốn hơn thì là “thiết yếu”, là “ổn định kinh tế vĩ mô” hoặc vv và vv. Vì là sân sau của hoặc bị chi phối bởi các nhóm lợi ích nên sự tồn tại của các DNNN kiểu này đương nhiên là có hại nhiều hơn có lợi cho cả nền kinh tế nói chung.
Từ đây, việc cần làm nữa trong tái cấu trúc DNNN là phải trả lời được câu hỏi liệu có phát hiện ra và xóa đi được cơ chế/cách thức để các nhóm lợi ích chi phối hoặc dựng lên các DNNN không?
Trên đây 3 trong số những câu hỏi căn bản nhất đặt ra trước khi chương trình tái cấu trúc được thành hình và khởi động. Nếu 1 trong 3 câu hỏi này có câu trả lời “không” hoặc “không rõ” thì cầm chắc rằng chuyện tái cấu trúc DNNN lại sẽ lặp lại vết xe đổ trong công cuộc sắp xếp và đổi mới DNNN hai thập kỷ trước đây mà hậu quả vẫn còn để lại tới ngày nay ở mức độ trầm trọng hơn. Mọi giải pháp tái cấu trúc lúc đó sẽ chỉ là nửa vời, không đáp ứng được mục tiêu là lành mạnh hóa DNNN và, nhờ đó, ổn định hóa kinh tế vĩ mô.
Các vấn đề khác liên quan đến tái cấu trúc như cổ phần hóa như thế nào, giữ lại bao nhiêu doanh nghiệp, trong những lĩnh vực nào, xác định được giá hợp lý để thúc đẩy cổ phần hóa, duy trì hay không mô hình mẹ - con, thành lập hay giải tán tập đoàn v.v... chỉ là những vấn đề thứ yếu hoặc kỹ thuật, hoàn toàn có thể xử lý được khi những vấn đề căn bản nêu trên đã được giải quyết.
Sunday, 27 November 2011
Friday, 25 November 2011
Tái cấu trúc: Có phải là thần chú? (bai nguyen ban, bai dang tren VEF da bien tap lai)
Nếu có thống kê, chắc cụm từ tái cấu trúc (kinh tế) phải thuộc tốp từ khóa được dùng nhiều nhất trong số các từ khóa liên quan đến kinh tế ở Việt Nam trong năm nay. Điều làm nó thành “hot” như vậy có lẽ là vì người ta đã gán cho nó chức năng là câu thần chú “vừng ơi mở ra” để đưa Việt Nam thoát hiểm qua cánh cửa hẹp với đầy rẫy những khó khăn và nguy cơ đổ vỡ đeo bám đằng sau mà nếu không thoát kịp thì chắc chẳng còn ai dám tiên đoán điều gì sẽ xảy ra.
Liệu tái cấu trúc kinh tế có phải là câu thần chú không và nó có giúp Việt Nam thoát hiểm được không? Liệu có là muộn không khi bây giờ mới đưa ra chuyện tái cấu trúc?
Tái cấu trúc không luôn là câu thần chú mầu nhiệm. Cũng là cải cách và đổi mới về bản chất, tái cấu trúc mang đến những xáo trộn lớn trong cả một thời gian tính bằng nhiều năm, những đánh đổi thiệt thòi và mất mát cho nhiều người, nhiều nhóm người và, ngược lại, làm cho nhiều người, nhiều nhóm người được hưởng lợi. Do đó, tái cấu trúc, cũng giống như cải cách và đổi mới, sẽ nhận được sự đồng tình và ủng hộ của một số nhóm người và đồng thời cũng bị tẩy chay quyết liệt bởi nhiều nhóm người khác. Nói cách khác, tái cấu trúc tự thân nó là một quá trình đấu tranh của các lực lượng nội tại và kết quả phụ thuộc vào lực lượng nào sẽ chiếm ưu thế cuối cùng. Trên cái nghĩa này, tái cấu trúc rất có thể sinh ra một sản phẩm dở dang, phế phẩm, hoặc tệ hơn, là một quái thai nếu nhìn từ góc độ lợi ích của toàn nền kinh tế.
Bởi vậy, trước khi thai nghén kế hoạch tái cấu trúc (với giả thiết đó là một kế hoạch tiến bộ) và thực thi nó, một số câu hỏi cần được trả lời dứt khoát, rõ ràng là ai, lực lượng nào sẽ chống đối tái cấu trúc đến cùng; liệu những lực lượng chủ trương tái cấu trúc có đủ sức mạnh, sự khôn ngoan và kiên nhẫn để chế át lực lượng chống đối và lèo lái tái cấu trúc vươn đến đích không; và điều gì là chất keo gắn kết những con người thuộc phe tái cấu trúc với nhau và với lãnh đạo của họ để cùng hướng tới mục tiêu chung tiến bộ trong bối cảnh, suy cho cùng, họ cũng bị lòng tham chi phối.
Nếu không trả lời được những câu hỏi quyết định này, mọi kế hoạch, chương trình tái cấu trúc mãi chỉ là ước nguyện tốt đẹp vì “có sinh mà không có dưỡng”, chính xác hơn là sẽ chết yểu giữa chừng. Những lời hay ý đẹp như “quyết tâm chính trị” hay “sự đồng thuận của tất cả các ngành, các cấp” hay dùng để thuyết phục công luận thường không phải là một cỗ máy ủi mạnh mẽ ủi được các chướng ngại vật trên con đường tái cấu trúc. Chúng cũng không phải là chất keo kết dính được các cá nhân trong lực lượng chủ trương tái cấu trúc và càng không phải là một thứ vũ khí sắc bén để tự gọt rũa mình (lực lượng chủ trương tái cấu trúc) và làm nản lòng lực lượng chống đối. Thực tiễn những năm qua minh họa rõ tình trạng “đầu voi đuôi chuột”, hoặc “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” diễn ra trong nhiều chính sách kinh tế xã hội ở Việt Nam, mà thường không hiếm khi được “khuyến mãi” thêm những lời hay ý đẹp này.
Nếu nhận thức được như vậy, có thể thấy tái cấu trúc nếu được thai nghén và tiến hành một cách “bất cập” sẽ không nhất thiết cứu được nền kinh tế Việt Nam khỏi những nguy cơ đổ vỡ. Trong bối cảnh như vậy, tái cấu trúc (nếu có) có thể mua thêm thời gian nhưng nó không phải là phương thuốc chữa trị cho những căn bệnh kinh niên của nền kinh tế Việt Nam.
Có lẽ chúng ta còn không nhiều thời gian khi đã để xảy đến tình trạng “nước đến chân mới nhẩy”, để cho nền kinh tế Việt Nam lún sâu vào khó khăn bằng chính những sai lầm về chính sách mà cũng chỉ đối phó bằng những chính sách chắp vá, hành chính, trong khi vẫn còn mò mẫm với vấn đề tái cấu trúc, vẫn chưa rõ được ai thắng ai, và, trên hết, vẫn chưa tìm được chất keo nào có thể gắn kết được lực lượng chủ trương tái cấu trúc và lãnh đạo của họ nói riêng và đa phần xã hội nói chungcùng theo mục tiêu chung tiến bộ đặt ra trong chương trình tái cấu trúc.
Liệu tái cấu trúc kinh tế có phải là câu thần chú không và nó có giúp Việt Nam thoát hiểm được không? Liệu có là muộn không khi bây giờ mới đưa ra chuyện tái cấu trúc?
Tái cấu trúc không luôn là câu thần chú mầu nhiệm. Cũng là cải cách và đổi mới về bản chất, tái cấu trúc mang đến những xáo trộn lớn trong cả một thời gian tính bằng nhiều năm, những đánh đổi thiệt thòi và mất mát cho nhiều người, nhiều nhóm người và, ngược lại, làm cho nhiều người, nhiều nhóm người được hưởng lợi. Do đó, tái cấu trúc, cũng giống như cải cách và đổi mới, sẽ nhận được sự đồng tình và ủng hộ của một số nhóm người và đồng thời cũng bị tẩy chay quyết liệt bởi nhiều nhóm người khác. Nói cách khác, tái cấu trúc tự thân nó là một quá trình đấu tranh của các lực lượng nội tại và kết quả phụ thuộc vào lực lượng nào sẽ chiếm ưu thế cuối cùng. Trên cái nghĩa này, tái cấu trúc rất có thể sinh ra một sản phẩm dở dang, phế phẩm, hoặc tệ hơn, là một quái thai nếu nhìn từ góc độ lợi ích của toàn nền kinh tế.
Bởi vậy, trước khi thai nghén kế hoạch tái cấu trúc (với giả thiết đó là một kế hoạch tiến bộ) và thực thi nó, một số câu hỏi cần được trả lời dứt khoát, rõ ràng là ai, lực lượng nào sẽ chống đối tái cấu trúc đến cùng; liệu những lực lượng chủ trương tái cấu trúc có đủ sức mạnh, sự khôn ngoan và kiên nhẫn để chế át lực lượng chống đối và lèo lái tái cấu trúc vươn đến đích không; và điều gì là chất keo gắn kết những con người thuộc phe tái cấu trúc với nhau và với lãnh đạo của họ để cùng hướng tới mục tiêu chung tiến bộ trong bối cảnh, suy cho cùng, họ cũng bị lòng tham chi phối.
Nếu không trả lời được những câu hỏi quyết định này, mọi kế hoạch, chương trình tái cấu trúc mãi chỉ là ước nguyện tốt đẹp vì “có sinh mà không có dưỡng”, chính xác hơn là sẽ chết yểu giữa chừng. Những lời hay ý đẹp như “quyết tâm chính trị” hay “sự đồng thuận của tất cả các ngành, các cấp” hay dùng để thuyết phục công luận thường không phải là một cỗ máy ủi mạnh mẽ ủi được các chướng ngại vật trên con đường tái cấu trúc. Chúng cũng không phải là chất keo kết dính được các cá nhân trong lực lượng chủ trương tái cấu trúc và càng không phải là một thứ vũ khí sắc bén để tự gọt rũa mình (lực lượng chủ trương tái cấu trúc) và làm nản lòng lực lượng chống đối. Thực tiễn những năm qua minh họa rõ tình trạng “đầu voi đuôi chuột”, hoặc “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” diễn ra trong nhiều chính sách kinh tế xã hội ở Việt Nam, mà thường không hiếm khi được “khuyến mãi” thêm những lời hay ý đẹp này.
Nếu nhận thức được như vậy, có thể thấy tái cấu trúc nếu được thai nghén và tiến hành một cách “bất cập” sẽ không nhất thiết cứu được nền kinh tế Việt Nam khỏi những nguy cơ đổ vỡ. Trong bối cảnh như vậy, tái cấu trúc (nếu có) có thể mua thêm thời gian nhưng nó không phải là phương thuốc chữa trị cho những căn bệnh kinh niên của nền kinh tế Việt Nam.
Có lẽ chúng ta còn không nhiều thời gian khi đã để xảy đến tình trạng “nước đến chân mới nhẩy”, để cho nền kinh tế Việt Nam lún sâu vào khó khăn bằng chính những sai lầm về chính sách mà cũng chỉ đối phó bằng những chính sách chắp vá, hành chính, trong khi vẫn còn mò mẫm với vấn đề tái cấu trúc, vẫn chưa rõ được ai thắng ai, và, trên hết, vẫn chưa tìm được chất keo nào có thể gắn kết được lực lượng chủ trương tái cấu trúc và lãnh đạo của họ nói riêng và đa phần xã hội nói chungcùng theo mục tiêu chung tiến bộ đặt ra trong chương trình tái cấu trúc.
Thursday, 24 November 2011
Tái cấu trúc ngân hàng - Một số công việc cụ thể cần làm (dang tren Dai bieu Nhan dan)
07:11 | 24/11/2011
Trong bài viết “Thực chất của tái cấu trúc kinh tế” đăng trong số trước, chúng ta đã đề cập đến khái niệm tái cấu trúc nhìn dưới góc độ cải cách và đổi mới. Trong bài viết này chúng ta sẽ chỉ ra cụ thể những công việc cần làm trong quá trình “tái cấu trúc”, hay bao quát và quen thuộc hơn là, cải cách và đổi mới hệ thống ngân hàng, vốn được xác định là một trong ba trọng tâm chính của tái cấu trúc kinh tế trong thời gian tới.
Lưu ý rằng ngay cả Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng chỉ mới đưa ra được một số chủ trương chung chung về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, vẫn chưa trả lời được những câu hỏi bắt đầu từ đâu, làm gì, như thế nào v.v…
Chúng ta sẽ bắt đầu từ việc chỉ ra những nguyên nhân làm cho hệ thống ngân hàng Việt Nam lâm vào tình trạng khó khăn hiện thời và kèm theo đó là những biện pháp xử lý và cải cách.
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự hình thành và tích tụ các rủi ro gây đổ vỡ mang tính hệ thống cho hệ thống ngân hàng là sự mở rộng nhanh chóng của hệ thống ngân hàng trong những năm gần đây, NHƯNG không đi kèm với sự tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý và phòng ngừa rủi ro, quản trị ngân hàng (như không áp dụng các chuẩn mực quốc tế về phân loại vốn vay, trích lập dự phòng, tính toán mức độ rủi ro của các khoản vay, và công bố thông tin), cũng như công tác thanh tra giám sát của NHNN.
Việc cần làm ở đây không phải là sự sắp xếp lại mang tính cơ học để giảm bớt số lượng ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ như nhiều người ở Việt Nam đang cổ xúy. Hệ thống ngân hàng không tự động trở nên khỏe mạnh hơn khi có ít ngân hàng hơn. Chất lượng và phạm vi dịch vụ cũng không được tự động cải thiện khi số lượng ngân hàng được giảm đi, nếu không muốn nói là ngược lại.
Vậy công việc cần làm là buộc các ngân hàng thương mại phải xây dựng được các quy trình quản lý và phòng ngừa rủi ro theo chuẩn mực chung của NHNN (và tiệm cận được với các chuẩn mực quốc tế), và NHNN phải có chế tài để buộc các ngân hàng thương mại áp dụng nghiêm túc các quy trình này. NHNN đóng một vai trò trọng yếu trong việc thắt chặt công tác quản lý và phòng ngừa rủi ro trong hệ thống, thông qua công tác thanh tra giám sát thường xuyên với đội ngũ cán bộ lành nghề giỏi chuyên môn. Những điều này không hề dễ thực hiện như trên thực tế đã cho thấy, khi các ngân hàng thương mại có các động cơ khuyến khích họ coi nhẹ rủi ro, khuyến khích họ làm càn, còn NHNN thì bị trói tay bởi thiếu cán bộ giỏi và không hiếm khi bị qua mặt bởi nạn hối lộ. Nói cách khác, điều quan trọng không chỉ là việc xây dựng và ban hành các quy trình, quy định, luật lệ mà còn phải xóa bỏ các động cơ khuyến khích các ngân hàng thương mại và kể cả NHNN làm sai, làm càn.
Những ngân hàng nào không đáp ứng được các chỉ tiêu hoạt động an toàn và lành mạnh theo các tiêu chí của NHNN đặt ra thì có thể và cần thiết phải xử lý như đối với một doanh nghiệp vi phạm pháp luật thông qua thu hồi giấy phép hoạt động. Đừng vì “cái bình quý” – sự ổn định của hệ thống – mà không dám động đến những “con mèo hư” – những ngân hàng không lành mạnh, không an toàn, để rồi vấn đề rủi ro đạo đức lại tiếp tục làm hư thêm những con mèo khác, cho đến lúc cả hệ thống sụp đổ thì đến mấy NHNN cũng đành bó tay. Việc công khai xử lý các con mèo hư có thể bước đầu gây ra một xáo trộn nào đó trong hệ thống thông qua những phản ứng dây chuyền, nhưng chắc chắn công luận sẽ đồng cảm và hoan nghênh những động thái tăng cường minh bạch, mang tính xây dựng của NHNN. Một lần chịu đau để giảm thiểu nguy cơ tái phát bệnh tật sau này luôn là điều nên làm.
Nguyên nhân thứ hai gây ra rủi ro đổ vỡ hệ thống liên quan đến sự thống trị của các tập đoàn kinh tế và các nhóm lợi ích đối với các ngân hàng thương mại, biến chúng thành nguồn cung cấp vốn cho các hoạt động mạo hiểm, rủi ro của mình (ví dụ như đầu tư và bất động sản và chứng khoán), vốn sẽ dẫn đến nguy cơ suy sụp cả hệ thống ngân hàng khi các thị trường này suy sụp.
Mặc dù NHNN đã có các quy định về tỷ lệ cho vay tối đa với một khách hàng nào đó, nhưng trên thực tế các quy định này thường bị lờ đi, đa phần bởi NHNN khó có khả năng phát hiện ra những mánh lới qua mặt mình (hoặc có khi cán bộ thanh tra NHNN cố tình bỏ qua).
Vậy việc cần làm, cũng giống như ở trên, là phải xóa bỏ các động cơ khuyến khích các ngân hàng thương mại và kể cả NHNN làm sai, làm càn. Với từng ngân hàng, cơ chế theo dõi của các cổ đông sẽ là một công cụ hữu hiệu để cho giới quản lý của ngân hàng nào đó không thể hành động vì quyền lợi của một số cổ đông chính hy sinh các cổ đông thiểu số. Với NHNN, đương nhiên công tác cán bộ (thanh tra, giám sát) có tầm quan trọng đặc biệt và cần áp dụng những cơ chế khuyến khích tập trung được cán bộ giỏi, liêm chính, đồng thời kịp thời phát hiện và trừng phạt những hành vi sai trái.
Nguyên nhân thứ ba góp mặt làm suy yếu hệ thống ngân hàng là sự thiếu hụt nguồn nhân lực ngân hàng lành nghề (nhất là nhân lực liên quan đến công tác đánh giá rủi ro, gồm cả nhân lực cung cấp cho công tác thanh tra, giám sát của NHNN) gây ra bởi sự tăng trưởng quá nhanh của hệ thống ngân hàng. Việc cần làm ở đây là điều hiển nhiên, không cần phải bàn thêm.
Về nguyên nhân thứ tư, mặc dù số lượng ngân hàng đã tăng lên nhanh chóng gần đây, có thể nói hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn bị chi phối bởi một số ông lớn ngân hàng thương mại nhà nước vốn chiếm thị phần đa số trong thị trường ngân hàng. Điều đáng nói là chính phủ và các nhóm lợi ích thường áp đặt các mệnh lệnh hành chính lên các ngân hàng thương mại nhà nước để chỉ định cho vay hoặc can thiệp quá trình thẩm định và cho vay các dự án, các doanh nghiệp, tạo ra rủi ro đạo đức lớn khi các ngân hàng cho vay mà không cần bận tâm đến tính khả thi của dự án, khả năng sống còn của doanh nghiệp. Theo đó là cho vay quá mức, lợi nhuận thấp, dòng tiền hạn chế, và kết cục phát sinh các khoản nợ xấu. Vinashin là một ví dụ đau đớn và sống động cho thực tế này.
Việc cần làm ở đây là phải kiên quyết xóa bỏ cung cách hành động phi thị trường này, có thể hoặc trực tiếp thông qua các quy định luật thành văn cấm các cơ quan, quan chức chính phủ dính líu đến các hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, hoặc gián tiếp thông qua việc tiếp tục và tăng cường quá trình cổ phần hóa các tổ chức tài chính và ngân hàng thương mại nhà nước, biến nhà nước thành cổ đông không chi phối hoặc không còn nắm giữ cổ phần nữa.
Nguyên nhân thứ năm liên quan đến những biến động kinh tế vĩ mô, trong đó có phần đóng góp của NHNN. Trong những năm trước, nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ và tài khóa được nới lỏng tối đa, và tín dụng vì thế tràn ngập nền kinh tế, không những làm tăng áp lực lạm phát mà còn chảy vào các lĩnh vực đầu cơ đầy rủi ro như chứng khoán và bất động sản, kéo theo sự tăng nóng về giá cả của những mặt hàng này, lại kích thích thêm nữa tín dụng ngân hàng chảy vào đó.
Sang năm nay, khi lạm phát đã có dấu hiệu nguy hiểm thì gánh nặng kiềm chế lạm phát lại bị dồn lên vai chính sách tiền tệ. Lãi suất tăng cao, còn tín dụng cho chứng khoán và bất động sản bị thắt lại. Giá chứng khoán và bất động sản sụt giảm làm cho giá trị các khoản thế chấp cũng sụt giảm tương ứng. Đi kèm với đó là tình trạng nhiều nhà đầu cơ mất khả năng thanh toán đã làm tăng tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực này và làm xấu đi nghiêm trọng bảng cân đối tài sản của nhiều ngân hàng.
Lãi suất VND cao còn dẫn đến chênh lệch lãi suất cho vay bằng VND và USD tăng lên trong khi NHNN tuyên bố là sẽ giữ ổn định tỷ giá. Trong môi trường đó, các doanh nghiệp và ngân hàng được khuyến khích vay nước ngoài, vay bằng ngoại tệ thay vì nội tệ (trong khi nguồn thu trả nợ lại bằng nội tệ) và không bận tâm đến việc phòng ngừa rủi ro (hedging) biến động tỷ giá.
Trong bối cảnh này, biện pháp xử lý phải xuất phát từ NHNN và nói rộng hơn là Chính phủ, theo hướng giảm thiểu chính sách điều hành giật cục, chạy từ thái cực nọ sang thái cực kia trong khoảng thời gian ngắn, dùng chủ yếu là các biện pháp hành chính. Họ cũng phải tự hoàn thiện khả năng hoạch định và lập chính sách, tiên liệu được hậu quả của các chính sách của mình lên nền kinh tế nói chung và lên hệ thống ngân hàng nói riêng. Có thể nói không quá rằng các cơ quan hữu trách đa phần đã không nhận thức và đánh giá được đầy đủ phạm vi tác động của các chính sách của mình.
Thay cho kết luận, với một số việc cần phải làm ngay như nêu ở trên (bên cạnh những công việc khác không được nêu ở đây), tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trở thành điều thiết thực hơn, dễ hiểu hơn và, nếu được thực hiện tốt, sẽ mang lại luồng sinh khí mới cho quá trình tái cấu trúc nền kinh tế (thực chất là cải cách và đổi mới) để mang lại sự tăng trưởng bền vững cho Việt Nam. Tuy vậy, sự thay đổi có tầm ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của tái cấu trúc hệ thống ngân hàng lại nằm ở phía Chính phủ nói chung và NHNN nói riêng, mà đôi khi việc thực hiện sao cho đúng đắn mang lại kết quả như mong muốn lại không hề đơn giản khi phải vượt qua chính cái bóng của mình, quá tầm cho phép của nhận thức và tư duy của mình.
Trong bài viết “Thực chất của tái cấu trúc kinh tế” đăng trong số trước, chúng ta đã đề cập đến khái niệm tái cấu trúc nhìn dưới góc độ cải cách và đổi mới. Trong bài viết này chúng ta sẽ chỉ ra cụ thể những công việc cần làm trong quá trình “tái cấu trúc”, hay bao quát và quen thuộc hơn là, cải cách và đổi mới hệ thống ngân hàng, vốn được xác định là một trong ba trọng tâm chính của tái cấu trúc kinh tế trong thời gian tới.
Lưu ý rằng ngay cả Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng chỉ mới đưa ra được một số chủ trương chung chung về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, vẫn chưa trả lời được những câu hỏi bắt đầu từ đâu, làm gì, như thế nào v.v…
Chúng ta sẽ bắt đầu từ việc chỉ ra những nguyên nhân làm cho hệ thống ngân hàng Việt Nam lâm vào tình trạng khó khăn hiện thời và kèm theo đó là những biện pháp xử lý và cải cách.
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự hình thành và tích tụ các rủi ro gây đổ vỡ mang tính hệ thống cho hệ thống ngân hàng là sự mở rộng nhanh chóng của hệ thống ngân hàng trong những năm gần đây, NHƯNG không đi kèm với sự tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý và phòng ngừa rủi ro, quản trị ngân hàng (như không áp dụng các chuẩn mực quốc tế về phân loại vốn vay, trích lập dự phòng, tính toán mức độ rủi ro của các khoản vay, và công bố thông tin), cũng như công tác thanh tra giám sát của NHNN.
Việc cần làm ở đây không phải là sự sắp xếp lại mang tính cơ học để giảm bớt số lượng ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ như nhiều người ở Việt Nam đang cổ xúy. Hệ thống ngân hàng không tự động trở nên khỏe mạnh hơn khi có ít ngân hàng hơn. Chất lượng và phạm vi dịch vụ cũng không được tự động cải thiện khi số lượng ngân hàng được giảm đi, nếu không muốn nói là ngược lại.
Vậy công việc cần làm là buộc các ngân hàng thương mại phải xây dựng được các quy trình quản lý và phòng ngừa rủi ro theo chuẩn mực chung của NHNN (và tiệm cận được với các chuẩn mực quốc tế), và NHNN phải có chế tài để buộc các ngân hàng thương mại áp dụng nghiêm túc các quy trình này. NHNN đóng một vai trò trọng yếu trong việc thắt chặt công tác quản lý và phòng ngừa rủi ro trong hệ thống, thông qua công tác thanh tra giám sát thường xuyên với đội ngũ cán bộ lành nghề giỏi chuyên môn. Những điều này không hề dễ thực hiện như trên thực tế đã cho thấy, khi các ngân hàng thương mại có các động cơ khuyến khích họ coi nhẹ rủi ro, khuyến khích họ làm càn, còn NHNN thì bị trói tay bởi thiếu cán bộ giỏi và không hiếm khi bị qua mặt bởi nạn hối lộ. Nói cách khác, điều quan trọng không chỉ là việc xây dựng và ban hành các quy trình, quy định, luật lệ mà còn phải xóa bỏ các động cơ khuyến khích các ngân hàng thương mại và kể cả NHNN làm sai, làm càn.
Những ngân hàng nào không đáp ứng được các chỉ tiêu hoạt động an toàn và lành mạnh theo các tiêu chí của NHNN đặt ra thì có thể và cần thiết phải xử lý như đối với một doanh nghiệp vi phạm pháp luật thông qua thu hồi giấy phép hoạt động. Đừng vì “cái bình quý” – sự ổn định của hệ thống – mà không dám động đến những “con mèo hư” – những ngân hàng không lành mạnh, không an toàn, để rồi vấn đề rủi ro đạo đức lại tiếp tục làm hư thêm những con mèo khác, cho đến lúc cả hệ thống sụp đổ thì đến mấy NHNN cũng đành bó tay. Việc công khai xử lý các con mèo hư có thể bước đầu gây ra một xáo trộn nào đó trong hệ thống thông qua những phản ứng dây chuyền, nhưng chắc chắn công luận sẽ đồng cảm và hoan nghênh những động thái tăng cường minh bạch, mang tính xây dựng của NHNN. Một lần chịu đau để giảm thiểu nguy cơ tái phát bệnh tật sau này luôn là điều nên làm.
Nguyên nhân thứ hai gây ra rủi ro đổ vỡ hệ thống liên quan đến sự thống trị của các tập đoàn kinh tế và các nhóm lợi ích đối với các ngân hàng thương mại, biến chúng thành nguồn cung cấp vốn cho các hoạt động mạo hiểm, rủi ro của mình (ví dụ như đầu tư và bất động sản và chứng khoán), vốn sẽ dẫn đến nguy cơ suy sụp cả hệ thống ngân hàng khi các thị trường này suy sụp.
Mặc dù NHNN đã có các quy định về tỷ lệ cho vay tối đa với một khách hàng nào đó, nhưng trên thực tế các quy định này thường bị lờ đi, đa phần bởi NHNN khó có khả năng phát hiện ra những mánh lới qua mặt mình (hoặc có khi cán bộ thanh tra NHNN cố tình bỏ qua).
Vậy việc cần làm, cũng giống như ở trên, là phải xóa bỏ các động cơ khuyến khích các ngân hàng thương mại và kể cả NHNN làm sai, làm càn. Với từng ngân hàng, cơ chế theo dõi của các cổ đông sẽ là một công cụ hữu hiệu để cho giới quản lý của ngân hàng nào đó không thể hành động vì quyền lợi của một số cổ đông chính hy sinh các cổ đông thiểu số. Với NHNN, đương nhiên công tác cán bộ (thanh tra, giám sát) có tầm quan trọng đặc biệt và cần áp dụng những cơ chế khuyến khích tập trung được cán bộ giỏi, liêm chính, đồng thời kịp thời phát hiện và trừng phạt những hành vi sai trái.
Nguyên nhân thứ ba góp mặt làm suy yếu hệ thống ngân hàng là sự thiếu hụt nguồn nhân lực ngân hàng lành nghề (nhất là nhân lực liên quan đến công tác đánh giá rủi ro, gồm cả nhân lực cung cấp cho công tác thanh tra, giám sát của NHNN) gây ra bởi sự tăng trưởng quá nhanh của hệ thống ngân hàng. Việc cần làm ở đây là điều hiển nhiên, không cần phải bàn thêm.
Về nguyên nhân thứ tư, mặc dù số lượng ngân hàng đã tăng lên nhanh chóng gần đây, có thể nói hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn bị chi phối bởi một số ông lớn ngân hàng thương mại nhà nước vốn chiếm thị phần đa số trong thị trường ngân hàng. Điều đáng nói là chính phủ và các nhóm lợi ích thường áp đặt các mệnh lệnh hành chính lên các ngân hàng thương mại nhà nước để chỉ định cho vay hoặc can thiệp quá trình thẩm định và cho vay các dự án, các doanh nghiệp, tạo ra rủi ro đạo đức lớn khi các ngân hàng cho vay mà không cần bận tâm đến tính khả thi của dự án, khả năng sống còn của doanh nghiệp. Theo đó là cho vay quá mức, lợi nhuận thấp, dòng tiền hạn chế, và kết cục phát sinh các khoản nợ xấu. Vinashin là một ví dụ đau đớn và sống động cho thực tế này.
Việc cần làm ở đây là phải kiên quyết xóa bỏ cung cách hành động phi thị trường này, có thể hoặc trực tiếp thông qua các quy định luật thành văn cấm các cơ quan, quan chức chính phủ dính líu đến các hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, hoặc gián tiếp thông qua việc tiếp tục và tăng cường quá trình cổ phần hóa các tổ chức tài chính và ngân hàng thương mại nhà nước, biến nhà nước thành cổ đông không chi phối hoặc không còn nắm giữ cổ phần nữa.
Nguyên nhân thứ năm liên quan đến những biến động kinh tế vĩ mô, trong đó có phần đóng góp của NHNN. Trong những năm trước, nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ và tài khóa được nới lỏng tối đa, và tín dụng vì thế tràn ngập nền kinh tế, không những làm tăng áp lực lạm phát mà còn chảy vào các lĩnh vực đầu cơ đầy rủi ro như chứng khoán và bất động sản, kéo theo sự tăng nóng về giá cả của những mặt hàng này, lại kích thích thêm nữa tín dụng ngân hàng chảy vào đó.
Sang năm nay, khi lạm phát đã có dấu hiệu nguy hiểm thì gánh nặng kiềm chế lạm phát lại bị dồn lên vai chính sách tiền tệ. Lãi suất tăng cao, còn tín dụng cho chứng khoán và bất động sản bị thắt lại. Giá chứng khoán và bất động sản sụt giảm làm cho giá trị các khoản thế chấp cũng sụt giảm tương ứng. Đi kèm với đó là tình trạng nhiều nhà đầu cơ mất khả năng thanh toán đã làm tăng tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực này và làm xấu đi nghiêm trọng bảng cân đối tài sản của nhiều ngân hàng.
Lãi suất VND cao còn dẫn đến chênh lệch lãi suất cho vay bằng VND và USD tăng lên trong khi NHNN tuyên bố là sẽ giữ ổn định tỷ giá. Trong môi trường đó, các doanh nghiệp và ngân hàng được khuyến khích vay nước ngoài, vay bằng ngoại tệ thay vì nội tệ (trong khi nguồn thu trả nợ lại bằng nội tệ) và không bận tâm đến việc phòng ngừa rủi ro (hedging) biến động tỷ giá.
Trong bối cảnh này, biện pháp xử lý phải xuất phát từ NHNN và nói rộng hơn là Chính phủ, theo hướng giảm thiểu chính sách điều hành giật cục, chạy từ thái cực nọ sang thái cực kia trong khoảng thời gian ngắn, dùng chủ yếu là các biện pháp hành chính. Họ cũng phải tự hoàn thiện khả năng hoạch định và lập chính sách, tiên liệu được hậu quả của các chính sách của mình lên nền kinh tế nói chung và lên hệ thống ngân hàng nói riêng. Có thể nói không quá rằng các cơ quan hữu trách đa phần đã không nhận thức và đánh giá được đầy đủ phạm vi tác động của các chính sách của mình.
Thay cho kết luận, với một số việc cần phải làm ngay như nêu ở trên (bên cạnh những công việc khác không được nêu ở đây), tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trở thành điều thiết thực hơn, dễ hiểu hơn và, nếu được thực hiện tốt, sẽ mang lại luồng sinh khí mới cho quá trình tái cấu trúc nền kinh tế (thực chất là cải cách và đổi mới) để mang lại sự tăng trưởng bền vững cho Việt Nam. Tuy vậy, sự thay đổi có tầm ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của tái cấu trúc hệ thống ngân hàng lại nằm ở phía Chính phủ nói chung và NHNN nói riêng, mà đôi khi việc thực hiện sao cho đúng đắn mang lại kết quả như mong muốn lại không hề đơn giản khi phải vượt qua chính cái bóng của mình, quá tầm cho phép của nhận thức và tư duy của mình.
Tuesday, 22 November 2011
Thực chất của tái cấu trúc kinh tế (dang tren Dai bieu Nhan dan)
Cụm từ tái cấu trúc kinh tế đã trở nên phổ biến gần đây ở mọi cấp, ngành, doanh nghiệp, và người dân khi những vấn đề tồn tại trong tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam đã trở nên rõ nét hơn bao giờ hết. Tái cấu trúc được đặt ra thành một yêu cầu, nhiệm vụ, cũng như sứ mệnh của không chỉ từ các cấp Đảng và chính quyền cao nhất mà còn của từng ngành kinh tế, từng doanh nghiệp. Nhiều người thống nhất với nhau rằng nền kinh tế Việt Nam đã tiến đến một ngưỡng mà không còn đường lùi, và chúng ta đang đứng trước một trong hai lựa chọn bắt buộc: tái cấu trúc hay là chết.
Tuy nhiên, những câu hỏi như thế nào là tái cấu trúc, tại sao phải tái cấu trúc, bắt đầu từ đâu, tiến hành như thế nào, có những điều kiện cần và đủ nào để tái cấu trúc, phạm vi tái cấu trúc đến đâu và ai là đối tượng của nó, quá trình tái cấu trúc có kết thúc hay không và nếu có thì sẽ kết thúc vào thời điểm nào, sau tái cấu trúc là gì, cần làm gì v.v… là một loạt những câu hỏi cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Điều đáng ngạc nhiên hơn là vấn đề tái cơ cấu đã được đặt ra trong một bối cảnh hoàn toàn không có gì rõ ràng như vậy,
Các văn kiện, tuyên bố và phát biểu của các cơ quan hữu trách, quan chức và chuyên gia dường như thống nhất ở một điểm rằng tái cấu trúc kinh tế là một sự tổ chức, sắp xếp lại (kèm theo giải thể và sát nhập) cả nền kinh tế, từng ngành kinh tế, từng khu vực doanh nghiệp, từng doanh nghiệp theo hướng nhỏ gọn hơn, “tinh” hơn và có hiệu quả hơn. Cũng không ít người thêm rằng tái cấu trúc bao hàm cả nghĩa đổi mới mô hình cũng như cách thức tăng trưởng và hoạt động của các chủ thể kinh tế.
Nhưng nếu như vậy, tái cấu trúc kinh tế về thực chất chỉ là sự cải cách và đổi mới kinh tế, những khái niệm đã quá quen thuộc với chúng ta từ hơn 2 thập kỷ trước đây bắt đầu từ công cuộc đổi mới và mở cửa được chính thức khởi xướng bởi Đại hội Đảng VI năm 1986 và tiếp tục sau đó nhiều năm với hàng loạt cải cách trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế và xã hội. Bản thân cụm từ cải cách và đổi mới này (và với thực tế những gì đã được thực thi, cũng như đã xảy ra trong những năm tiến hành cải cách và đổi mới) đã phản ánh chính xác nhu cầu đặt cho, và cách hiểu về tái cấu trúc kinh tế đang đặt ra hiện nay. Ngay cả ba lĩnh vực cụ thể sẽ diễn ra tái cấu trúc mà chúng ta đã xác định được là doanh nghiệp nhà nước, hệ thống ngân hàng, và đầu tư công cũng đều là những lĩnh vực mà trước đây đã diễn ra những cuộc cải cách lớn dựa một phần trên các nguyên lý kinh tế thị trường.
Và câu hỏi tất yếu tiếp theo là tại sao chúng ta không dùng, không muốn dùng đến cụm từ cải cách và đổi mới thay cho cụm từ “thời thượng” là tái cấu trúc để mô tả cùng một công việc?
Có một số khả năng có thể là nguyên nhân của vấn đề này. Thứ nhất, công cuộc cải cách và đổi mới khởi xướng từ năm 1986 và diễn ra trong những năm sau đó đã bị quên lãng sau khi một số mục tiêu đặt ra ban đầu đã được thực hiện và (được cho rằng) đã đạt kết quả (ví dụ, tạo lập một nền kinh tế nhiều thành phần, tạo lập một hệ thống ngân hàng có ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc thị trường). Việc tiếp tục các biện pháp cải cách để duy trì và hoàn thiện những thành quả này hoặc chưa bao giờ được đặt ra (một cách nghiêm túc) hoặc chỉ là những nhu cầu thứ yếu. Thứ hai, cải cách và đổi mới còn nhanh chóng bị quên lãng một cách có chủ ý khi những tác động đến từ bên ngoài lẫn nội tại (ví dụ như khủng hoảng tài chính khu vực hoặc bất ổn vĩ mô trong nước) đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho kinh tế xã hội Việt Nam. Trước nhu cầu cấp thiết ổn định hóa và bảo vệ nền kinh tế khỏi sự sụp đổ dây chuyền, vấn đề cải cách và đổi mới đã tạm bị gác sang một bên rồi hầu như bị lãng quên hẳn theo thời gian và thứ tự ưu tiên của các mục tiêu. Thứ ba, sau khi được cởi trói, nền kinh tế đã tăng trưởng mạnh mẽ và kéo theo nó là sự hình thành và ngày càng lớn mạnh của hàng loạt nhóm lợi ích khuynh đảo đến tiến trình hoạch định và thực thi chính sách. Sự chống đối mạnh mẽ của các nhóm lợi ích đã làm gián đoạn hoặc gần như ngừng trệ một số chương trình, biện pháp cải cách nào đó (ví dụ như cải cách và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước).
Trên hết, cải cách và đổi mới đã không được nhận thức đúng rằng đó không phải là công việc làm một lần là xong rồi thôi, mà là một quá trình thường xuyên và liên tục nhằm hướng tới sự tự hoàn thiện và theo kịp những diễn biến từ bên ngoài và đòi hỏi từ bên trong.
Với những lý do như trên và những lý do có thể có khác, việc khởi động chương trình tái cơ cấu kinh tế thay cho việc nối lại và/hoặc tiếp tục các chương trình và biện pháp cải cách, đổi mới (mà về bản chất đã bao hàm cả việc tái cơ cấu) có thể dẫn đến ý nghĩ trong ai đó rằng chúng ta đang không muốn nhắc lại sai lầm đã mắc phải (sao nhãng, làm nửa vời và lãng quên cải cách và đổi mới).
Như vậy có thể thấy, việc tiếp tục nối lại công cuộc cải cách và đổi mới kinh tế (với một số điều chỉnh và thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới) là điều cần thiết hiện nay, thay vì đưa ra một khái niệm mới vẫn còn rất xa lạ, tuy về bản chất thì không khác gì. Và cũng có thể thấy Ts Lê Đăng Doanh đã rất có lý khi nói Việt Nam cần một công cuộc đổi mới lần thứ hai. Người viết thì muốn được mượn ý tưởng của ông để nói cho chính xác hơn là Việt Nam cần tiếp tục công cuộc đổi mới đã bị bỏ bễ hàng chục năm qua.
Nhưng dù có dùng khái niệm nào chăng nữa, bài học rút ra từ quá khứ và cả thực tiễn hiện nay cho thấy cải cách và đổi mới hay tái cấu trúc phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, nhất quán, kiên quyết với mục đích tối thượng là làm cho các chủ thể, các lĩnh vực kinh tế ngày càng hoàn thiện, luôn hoạt động lành mạnh theo các nguyên lý thị trường và không bị chi phối, bẻ cong hoặc chấm dứt giữa chừng bởi các nhóm lợi ích. Nếu không xác quyết được điều này thì các kết quả nếu có đạt được chỉ là ngắn hạn.
Tuy nhiên, những câu hỏi như thế nào là tái cấu trúc, tại sao phải tái cấu trúc, bắt đầu từ đâu, tiến hành như thế nào, có những điều kiện cần và đủ nào để tái cấu trúc, phạm vi tái cấu trúc đến đâu và ai là đối tượng của nó, quá trình tái cấu trúc có kết thúc hay không và nếu có thì sẽ kết thúc vào thời điểm nào, sau tái cấu trúc là gì, cần làm gì v.v… là một loạt những câu hỏi cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Điều đáng ngạc nhiên hơn là vấn đề tái cơ cấu đã được đặt ra trong một bối cảnh hoàn toàn không có gì rõ ràng như vậy,
Các văn kiện, tuyên bố và phát biểu của các cơ quan hữu trách, quan chức và chuyên gia dường như thống nhất ở một điểm rằng tái cấu trúc kinh tế là một sự tổ chức, sắp xếp lại (kèm theo giải thể và sát nhập) cả nền kinh tế, từng ngành kinh tế, từng khu vực doanh nghiệp, từng doanh nghiệp theo hướng nhỏ gọn hơn, “tinh” hơn và có hiệu quả hơn. Cũng không ít người thêm rằng tái cấu trúc bao hàm cả nghĩa đổi mới mô hình cũng như cách thức tăng trưởng và hoạt động của các chủ thể kinh tế.
Nhưng nếu như vậy, tái cấu trúc kinh tế về thực chất chỉ là sự cải cách và đổi mới kinh tế, những khái niệm đã quá quen thuộc với chúng ta từ hơn 2 thập kỷ trước đây bắt đầu từ công cuộc đổi mới và mở cửa được chính thức khởi xướng bởi Đại hội Đảng VI năm 1986 và tiếp tục sau đó nhiều năm với hàng loạt cải cách trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế và xã hội. Bản thân cụm từ cải cách và đổi mới này (và với thực tế những gì đã được thực thi, cũng như đã xảy ra trong những năm tiến hành cải cách và đổi mới) đã phản ánh chính xác nhu cầu đặt cho, và cách hiểu về tái cấu trúc kinh tế đang đặt ra hiện nay. Ngay cả ba lĩnh vực cụ thể sẽ diễn ra tái cấu trúc mà chúng ta đã xác định được là doanh nghiệp nhà nước, hệ thống ngân hàng, và đầu tư công cũng đều là những lĩnh vực mà trước đây đã diễn ra những cuộc cải cách lớn dựa một phần trên các nguyên lý kinh tế thị trường.
Và câu hỏi tất yếu tiếp theo là tại sao chúng ta không dùng, không muốn dùng đến cụm từ cải cách và đổi mới thay cho cụm từ “thời thượng” là tái cấu trúc để mô tả cùng một công việc?
Có một số khả năng có thể là nguyên nhân của vấn đề này. Thứ nhất, công cuộc cải cách và đổi mới khởi xướng từ năm 1986 và diễn ra trong những năm sau đó đã bị quên lãng sau khi một số mục tiêu đặt ra ban đầu đã được thực hiện và (được cho rằng) đã đạt kết quả (ví dụ, tạo lập một nền kinh tế nhiều thành phần, tạo lập một hệ thống ngân hàng có ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc thị trường). Việc tiếp tục các biện pháp cải cách để duy trì và hoàn thiện những thành quả này hoặc chưa bao giờ được đặt ra (một cách nghiêm túc) hoặc chỉ là những nhu cầu thứ yếu. Thứ hai, cải cách và đổi mới còn nhanh chóng bị quên lãng một cách có chủ ý khi những tác động đến từ bên ngoài lẫn nội tại (ví dụ như khủng hoảng tài chính khu vực hoặc bất ổn vĩ mô trong nước) đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho kinh tế xã hội Việt Nam. Trước nhu cầu cấp thiết ổn định hóa và bảo vệ nền kinh tế khỏi sự sụp đổ dây chuyền, vấn đề cải cách và đổi mới đã tạm bị gác sang một bên rồi hầu như bị lãng quên hẳn theo thời gian và thứ tự ưu tiên của các mục tiêu. Thứ ba, sau khi được cởi trói, nền kinh tế đã tăng trưởng mạnh mẽ và kéo theo nó là sự hình thành và ngày càng lớn mạnh của hàng loạt nhóm lợi ích khuynh đảo đến tiến trình hoạch định và thực thi chính sách. Sự chống đối mạnh mẽ của các nhóm lợi ích đã làm gián đoạn hoặc gần như ngừng trệ một số chương trình, biện pháp cải cách nào đó (ví dụ như cải cách và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước).
Trên hết, cải cách và đổi mới đã không được nhận thức đúng rằng đó không phải là công việc làm một lần là xong rồi thôi, mà là một quá trình thường xuyên và liên tục nhằm hướng tới sự tự hoàn thiện và theo kịp những diễn biến từ bên ngoài và đòi hỏi từ bên trong.
Với những lý do như trên và những lý do có thể có khác, việc khởi động chương trình tái cơ cấu kinh tế thay cho việc nối lại và/hoặc tiếp tục các chương trình và biện pháp cải cách, đổi mới (mà về bản chất đã bao hàm cả việc tái cơ cấu) có thể dẫn đến ý nghĩ trong ai đó rằng chúng ta đang không muốn nhắc lại sai lầm đã mắc phải (sao nhãng, làm nửa vời và lãng quên cải cách và đổi mới).
Như vậy có thể thấy, việc tiếp tục nối lại công cuộc cải cách và đổi mới kinh tế (với một số điều chỉnh và thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới) là điều cần thiết hiện nay, thay vì đưa ra một khái niệm mới vẫn còn rất xa lạ, tuy về bản chất thì không khác gì. Và cũng có thể thấy Ts Lê Đăng Doanh đã rất có lý khi nói Việt Nam cần một công cuộc đổi mới lần thứ hai. Người viết thì muốn được mượn ý tưởng của ông để nói cho chính xác hơn là Việt Nam cần tiếp tục công cuộc đổi mới đã bị bỏ bễ hàng chục năm qua.
Nhưng dù có dùng khái niệm nào chăng nữa, bài học rút ra từ quá khứ và cả thực tiễn hiện nay cho thấy cải cách và đổi mới hay tái cấu trúc phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, nhất quán, kiên quyết với mục đích tối thượng là làm cho các chủ thể, các lĩnh vực kinh tế ngày càng hoàn thiện, luôn hoạt động lành mạnh theo các nguyên lý thị trường và không bị chi phối, bẻ cong hoặc chấm dứt giữa chừng bởi các nhóm lợi ích. Nếu không xác quyết được điều này thì các kết quả nếu có đạt được chỉ là ngắn hạn.
Tết đến nơi, có nên thực hiện bình ổn giá? (bai dang tren VEF)
(VEF.VN) - Sau khi xem xét kỹ tác động và hậu quả, chủ trương "thí điểm" và "nhân rộng" việc bình ổn giá, coi đó là một chìa khóa thành công trong việc kiểm soát lạm phát ở TP.HCM và Hà Nội, cần phải được xem xét lại sớm nhất có thể - TS. Phan Minh Ngọc.
LTS: Khi thực hiện thí điểm chương trình bình ổn giá, rất nhiều chuyên gia đã bày tỏ sự không đồng tình và hoài nghi về hiệu quả của nó. Bài viết dưới đây của TS. Phan Minh Ngọc cũng khuyến cáo cần xem xét lại việc triển khai chương trình này. Mời độc giả cùng tham gia tranh luận về chủ đề trên.
TP.HCM, Hà Nội và có lẽ lác đác một số nơi khác, đã và đang thực hiện một số chương trình bình ổn giá cả bằng cách trợ cấp tín dụng (cho vay với lãi suất ưu đãi) để doanh nghiệp tham gia bình ổn giá cả mua tích trữ hàng hóa và cam kết bán ra với giá thấp hơn giá thị trường, thường là 10% hay một con số nào đó.
Nói công bằng, việc trợ giá cho một số loại hàng hóa nào đó không phải là việc làm đầu tiên có ở Việt Nam và chỉ có ở Việt Nam, mà đã được thực hiện nhiều nơi trên thế giới. Hình thức phân phối hàng hóa theo tem phiếu ở Việt Nam nói riêng và ở nhiều nơi trên thế giới nói chung đã và vẫn đang tồn tại. Nhưng bài viết này sẽ chỉ ra rằng, việc bình ổn giá sẽ không mang lại kết quả như mong muốn, và rốt cuộc chỉ làm lãng phí nguồn lực xã hội, hoặc tái phân phối nguồn lực xã hội một cách không cần thiết, không hợp lý, không tối ưu..v..v...
Hãy bắt đầu bằng việc phân tích lý do sản sinh ra chủ trương bình ổn giá. Việc giá cả một loại hàng hóa nào đó tăng lên là biểu hiện sự mất cân đối cung cầu - cung nhỏ hơn cầu (cung và cầu đều có thể biến động tăng giảm nhưng chênh lệch cung cầu đang tồn tại và tăng lên). Để ổn định giá bán hàng hóa - gây ra do cầu lớn hơn cung, chính quyền phải bù đắp phần chênh lệch về giá trước và sau khi có biến động cung cầu này.
Vấn đề sẽ nằm ở chỗ ảnh hưởng của việc trợ giá này lên cán cân cung cầu hàng hóa sẽ như thế nào? Người ta dường như không thấy ảnh hưởng trực tiếp vì rõ ràng, tiền trợ giá là từ ngân sách, có vẻ như không ảnh hưởng đến cung của doanh nghiệp và cầu của đại chúng. Nhưng xét kỹ thì sự việc sẽ khác hẳn.
Về phía cầu, giả thiết rằng giá cả thị trường của một hay một số mặt hàng nào đó sẽ tăng lên sau một thời gian nhất định, chẳng hạn 2 tháng nữa, là thời điểm Tết, do nhu cầu của người tiêu dùng tăng mạnh.
Để bình ổn, chính quyền cấp vốn rẻ (thường với lãi suất bằng 0) cho doanh nghiệp thương mại mua và tích trữ hàng trong kho ngay từ bây giờ, chờ 2 tháng nữa tung ra thị trường. Nhưng việc này vô hình trung đã làm tăng cầu tại thời điểm hiện tại lên quá mức thông thường. Với cung không kịp điều chỉnh trong ngắn hạn thì giá cả của những mặt hàng bình ổn buộc phải tăng, phản ánh đúng tình trạng mất cân đối cung cầu tăng lên. Cái giá phải trả cho hành động bình ổn này là lạm phát (tức hiện tượng giá cả tăng lên) sẽ tăng lên ở thời điểm hiện tại (với giả thiết mọi điều kiện khác không thay đổi). Nói cách khác, bình ổn sẽ dẫn đến hậu quả là dịch chuyển thời điểm gây lạm phát trong tương lai đến thời điểm hiện tại; lạm phát thay vì xảy ra trong tương lai sẽ xảy ra tại thời điểm hiện tại, bản chất sự việc (bình ổn giá cả, nhằm kiềm chế lạm phát) không được thay đổi theo chiều hướng tốt hơn.
Về phía cung, dùng một phần ngân sách để bình ổn giá cả sẽ dẫn đến tình trạng có khả năng phải cắt giảm phần kinh phí dùng để hỗ trợ sản xuất (nếu đã, đang, và sẽ có) cho các doanh nghiệp (về phía cung, ví dụ như hình thức vay ưu đãi để sản xuất). Hậu quả của tình trạng này là nguồn cung không thể gia tăng (tất nhiên với giả thiết là các điều kiện khác vẫn không thay đổi), và do đó, càng làm tăng thêm bất cân đối cung cầu như nói ở trên.
Đáng nói hơn nữa, dùng ngân sách để bù giá trong bối cảnh ngân sách của Trung ương và địa phương luôn ở tình trạng thâm hụt kinh niên sẽ tạo thêm áp lực thâm hụt ngân sách, tùy thuộc vào quy mô bù giá. Thâm hụt ngân sách sẽ phải được trang trải bằng hoặc vay nợ trực tiếp từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tức là một dạng tăng cung tiền qua hành động in tiền của NHNN vào lưu thông, hoặc bằng cách "an toàn" hơn là đi vay mượn trong nước và/hoặc ngoài nước (thông qua phát hành trái phiếu nội tệ, ngoại tệ).
Tất nhiên, một khả năng khác là phải tăng nguồn thu ngân sách, thông qua các biện pháp như tăng thuế, nhưng những biện pháp này hoặc là dẫn đến cắt giảm đầu tư của doanh nghiệp sản xuất (và tức là làm giảm cung), hoặc là đã được cố gắng thực hiện nhưng kết quả không được như mong đợi, thể hiện rõ qua việc thâm hụt ngân sách đã và đang tồn tại từ hàng vài chục năm nay mà không hề có xu hướng được cải thiện.
Như thế, hai biện pháp khả thi để tài trợ thâm hụt ngân sách gây ra bởi việc bù giá (lại giả thiết các điều kiện khác không thay đổi) sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại lên giá cả. Nếu tài trợ bằng việc in tiền từ NHNN thì sẽ làm tăng áp lực lạm phát, kỳ vọng lạm phát, và rốt cuộc lạm phát, theo đó mặt bằng giá cả của hàng hóa nói chung sẽ tăng lên. Nói cách khác, cho dù các mặt hàng được bình ổn giá có thể không tăng nhưng, đổi lại, người tiêu dùng sẽ phải trả giá cao hơn cho vô vàn những mặt hàng tiêu dùng khác, và cuối cùng thì gánh nặng chi tiêu không hề giảm, nếu không muốn nói là cao hơn so với không có bình ổn giá.
Nếu tài trợ bằng vay nợ trong và ngoài nước thì hậu quả sẽ là tăng lãi suất VND (trường hợp huy động bằng nội tệ) hoặc tăng vay nợ nước ngoài (trường hợp huy động bằng ngoại tệ). Tăng lãi suất VND lại sẽ có tác dụng tiêu cực ngược lên phía cung, làm tăng thêm bất cân đối cung cầu hàng hóa như đã nói.
Đối với việc đi vay nước ngoài, tùy thuộc phản ứng của NHNN, tăng vay nợ nước ngoài sẽ hoặc là làm tăng lãi suất VND (1), hoặc là tăng giá VND (2). Cả hai khả năng này đều tác động tiêu cực đến phía cung hàng hóa khi nó làm tăng chi phí sản xuất đầu vào cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, trong trường hợp Chính phủ vay nợ bằng ngoại tệ, khi đến hạn phải trả nợ lãi và vốn, nếu Chính phủ không thể thu xếp được nguồn ngoại tệ để chi trả (cũng vì lý do ngân sách luôn ở trạng thái thâm hụt, giật gấu vá vai), Chính phủ sẽ buộc phải vay mượn trong và ngoài nước, lặp lại vòng luẩn quẩn nói trên. Trường hợp xấu hơn, Chính phủ buộc phải vay ngoại tệ trực tiếp từ NHNN, và do đó làm giảm dự trữ ngoại tệ của NHNN, và tức là giảm khả năng can thiệp vào tỷ giá khi có các biến động vĩ mô bất lợi cho VND (3).
Bên cạnh những tác động tiêu cực lên cân đối thu chi ngân sách và, do đó, lên cung cầu hàng hóa, hành động bình ổn giá cả còn vô tác dụng nếu nó chỉ được thực hiện ở một hay một số địa phương. Việc thực hiện bình ổn giá ở TP.HCM theo lý thuyết sẽ ổn định được giá cả tại đó. Vì chênh lệch giá giữa nơi này và các địa phương trong cả nước, nhất là địa phương lân cận, thương nhân ở các địa phương sẽ đến mua hàng ở đây mang về địa phương mình bán, hưởng chênh lệch giá. Vì thế, theo thời gian, có thể là rất ngắn, chỉ một vài ngày hoặc vài tuần, chênh lệch giá cả sẽ biến mất giữa các địa phương, theo đúng quy luật cung cầu. Nói cách khác, một mình giới doanh nghiệp và thương nghiệp ở TP.HCM sẽ không đủ sức để cáng đáng bình ổn giá cả cho toàn bộ một vùng rộng lớn hơn, nếu không nói là cả nước. Rốt cuộc, của Thiên trả Địa, và mục đích bình ổn, dù chỉ là tại một địa phương, sẽ không được thực hiện.
Lưu ý thêm rằng ở đây chúng ta không đề cập đến chuyện gian lận trong việc thực hiện chương trình bình ổn giá, mặc dù chuyện này dường như không thể tránh khỏi, và do đó làm giảm hơn nữa hiệu quả của việc làm này.
Tóm lại, xem xét kỹ tác động và hậu quả thì hoàn toàn không nên lặp lại hình thức bình ổn giá, một hình thức thu hẹp và biến tướng của chính sách bao cấp về giá trong cả nền kinh tế thời cách đây 2-3 thập kỷ, vốn đã được thực tế chứng minh là một thất bại. Vì thế, những chủ trương "thí điểm" và "nhân rộng" việc bình ổn giá, coi đó là một chìa khóa thành công trong việc kiểm soát lạm phát ở những nơi như TP.HCM và Hà Nội cần phải được xem xét lại sớm nhất có thể.
_______________________
Chú thích:
(1). Trường hợp này xảy ra khi NHNN không can thiệp gì vào thị trường ngoại hối và tiền tệ. Hành động hoán đổi ngoại tệ đi vay ra VND của Chính phủ để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp tham gia bình ổn giá ở Việt Nam sẽ làm cầu VND tăng lên, dẫn đến lãi suất VND cũng tăng lên tương ứng so với USD.
(2). Nếu NHNN theo đuổi chính sách ổn định lãi suất VND thì lúc này NHNN buộc phải tăng cung VND tương ứng với lượng ngoại tệ mới tăng thêm trong nền kinh tế do vay mượn từ nước ngoài theo tỷ giá hiện thời
(3). Khi đến hạn trả nợ lãi và vốn vay, Chính phủ phải tiếp tục một lần nữa vay mượn VND trên thị trường trong nước để mua ngoại tệ, hoặc trực tiếp vay nước ngoài bằng ngoại tệ, lặp lại vòng luẩn quẩn nói trên. Trường hợp xấu hơn, Chính phủ buộc phải vay ngoại tệ trực tiếp từ quỹ dự trữ ngoại tệ NHNN để trả nợ.
LTS: Khi thực hiện thí điểm chương trình bình ổn giá, rất nhiều chuyên gia đã bày tỏ sự không đồng tình và hoài nghi về hiệu quả của nó. Bài viết dưới đây của TS. Phan Minh Ngọc cũng khuyến cáo cần xem xét lại việc triển khai chương trình này. Mời độc giả cùng tham gia tranh luận về chủ đề trên.
TP.HCM, Hà Nội và có lẽ lác đác một số nơi khác, đã và đang thực hiện một số chương trình bình ổn giá cả bằng cách trợ cấp tín dụng (cho vay với lãi suất ưu đãi) để doanh nghiệp tham gia bình ổn giá cả mua tích trữ hàng hóa và cam kết bán ra với giá thấp hơn giá thị trường, thường là 10% hay một con số nào đó.
Nói công bằng, việc trợ giá cho một số loại hàng hóa nào đó không phải là việc làm đầu tiên có ở Việt Nam và chỉ có ở Việt Nam, mà đã được thực hiện nhiều nơi trên thế giới. Hình thức phân phối hàng hóa theo tem phiếu ở Việt Nam nói riêng và ở nhiều nơi trên thế giới nói chung đã và vẫn đang tồn tại. Nhưng bài viết này sẽ chỉ ra rằng, việc bình ổn giá sẽ không mang lại kết quả như mong muốn, và rốt cuộc chỉ làm lãng phí nguồn lực xã hội, hoặc tái phân phối nguồn lực xã hội một cách không cần thiết, không hợp lý, không tối ưu..v..v...
Hãy bắt đầu bằng việc phân tích lý do sản sinh ra chủ trương bình ổn giá. Việc giá cả một loại hàng hóa nào đó tăng lên là biểu hiện sự mất cân đối cung cầu - cung nhỏ hơn cầu (cung và cầu đều có thể biến động tăng giảm nhưng chênh lệch cung cầu đang tồn tại và tăng lên). Để ổn định giá bán hàng hóa - gây ra do cầu lớn hơn cung, chính quyền phải bù đắp phần chênh lệch về giá trước và sau khi có biến động cung cầu này.
Vấn đề sẽ nằm ở chỗ ảnh hưởng của việc trợ giá này lên cán cân cung cầu hàng hóa sẽ như thế nào? Người ta dường như không thấy ảnh hưởng trực tiếp vì rõ ràng, tiền trợ giá là từ ngân sách, có vẻ như không ảnh hưởng đến cung của doanh nghiệp và cầu của đại chúng. Nhưng xét kỹ thì sự việc sẽ khác hẳn.
Về phía cầu, giả thiết rằng giá cả thị trường của một hay một số mặt hàng nào đó sẽ tăng lên sau một thời gian nhất định, chẳng hạn 2 tháng nữa, là thời điểm Tết, do nhu cầu của người tiêu dùng tăng mạnh.
Để bình ổn, chính quyền cấp vốn rẻ (thường với lãi suất bằng 0) cho doanh nghiệp thương mại mua và tích trữ hàng trong kho ngay từ bây giờ, chờ 2 tháng nữa tung ra thị trường. Nhưng việc này vô hình trung đã làm tăng cầu tại thời điểm hiện tại lên quá mức thông thường. Với cung không kịp điều chỉnh trong ngắn hạn thì giá cả của những mặt hàng bình ổn buộc phải tăng, phản ánh đúng tình trạng mất cân đối cung cầu tăng lên. Cái giá phải trả cho hành động bình ổn này là lạm phát (tức hiện tượng giá cả tăng lên) sẽ tăng lên ở thời điểm hiện tại (với giả thiết mọi điều kiện khác không thay đổi). Nói cách khác, bình ổn sẽ dẫn đến hậu quả là dịch chuyển thời điểm gây lạm phát trong tương lai đến thời điểm hiện tại; lạm phát thay vì xảy ra trong tương lai sẽ xảy ra tại thời điểm hiện tại, bản chất sự việc (bình ổn giá cả, nhằm kiềm chế lạm phát) không được thay đổi theo chiều hướng tốt hơn.
Về phía cung, dùng một phần ngân sách để bình ổn giá cả sẽ dẫn đến tình trạng có khả năng phải cắt giảm phần kinh phí dùng để hỗ trợ sản xuất (nếu đã, đang, và sẽ có) cho các doanh nghiệp (về phía cung, ví dụ như hình thức vay ưu đãi để sản xuất). Hậu quả của tình trạng này là nguồn cung không thể gia tăng (tất nhiên với giả thiết là các điều kiện khác vẫn không thay đổi), và do đó, càng làm tăng thêm bất cân đối cung cầu như nói ở trên.
Đáng nói hơn nữa, dùng ngân sách để bù giá trong bối cảnh ngân sách của Trung ương và địa phương luôn ở tình trạng thâm hụt kinh niên sẽ tạo thêm áp lực thâm hụt ngân sách, tùy thuộc vào quy mô bù giá. Thâm hụt ngân sách sẽ phải được trang trải bằng hoặc vay nợ trực tiếp từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tức là một dạng tăng cung tiền qua hành động in tiền của NHNN vào lưu thông, hoặc bằng cách "an toàn" hơn là đi vay mượn trong nước và/hoặc ngoài nước (thông qua phát hành trái phiếu nội tệ, ngoại tệ).
Tất nhiên, một khả năng khác là phải tăng nguồn thu ngân sách, thông qua các biện pháp như tăng thuế, nhưng những biện pháp này hoặc là dẫn đến cắt giảm đầu tư của doanh nghiệp sản xuất (và tức là làm giảm cung), hoặc là đã được cố gắng thực hiện nhưng kết quả không được như mong đợi, thể hiện rõ qua việc thâm hụt ngân sách đã và đang tồn tại từ hàng vài chục năm nay mà không hề có xu hướng được cải thiện.
Như thế, hai biện pháp khả thi để tài trợ thâm hụt ngân sách gây ra bởi việc bù giá (lại giả thiết các điều kiện khác không thay đổi) sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại lên giá cả. Nếu tài trợ bằng việc in tiền từ NHNN thì sẽ làm tăng áp lực lạm phát, kỳ vọng lạm phát, và rốt cuộc lạm phát, theo đó mặt bằng giá cả của hàng hóa nói chung sẽ tăng lên. Nói cách khác, cho dù các mặt hàng được bình ổn giá có thể không tăng nhưng, đổi lại, người tiêu dùng sẽ phải trả giá cao hơn cho vô vàn những mặt hàng tiêu dùng khác, và cuối cùng thì gánh nặng chi tiêu không hề giảm, nếu không muốn nói là cao hơn so với không có bình ổn giá.
Nếu tài trợ bằng vay nợ trong và ngoài nước thì hậu quả sẽ là tăng lãi suất VND (trường hợp huy động bằng nội tệ) hoặc tăng vay nợ nước ngoài (trường hợp huy động bằng ngoại tệ). Tăng lãi suất VND lại sẽ có tác dụng tiêu cực ngược lên phía cung, làm tăng thêm bất cân đối cung cầu hàng hóa như đã nói.
Đối với việc đi vay nước ngoài, tùy thuộc phản ứng của NHNN, tăng vay nợ nước ngoài sẽ hoặc là làm tăng lãi suất VND (1), hoặc là tăng giá VND (2). Cả hai khả năng này đều tác động tiêu cực đến phía cung hàng hóa khi nó làm tăng chi phí sản xuất đầu vào cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, trong trường hợp Chính phủ vay nợ bằng ngoại tệ, khi đến hạn phải trả nợ lãi và vốn, nếu Chính phủ không thể thu xếp được nguồn ngoại tệ để chi trả (cũng vì lý do ngân sách luôn ở trạng thái thâm hụt, giật gấu vá vai), Chính phủ sẽ buộc phải vay mượn trong và ngoài nước, lặp lại vòng luẩn quẩn nói trên. Trường hợp xấu hơn, Chính phủ buộc phải vay ngoại tệ trực tiếp từ NHNN, và do đó làm giảm dự trữ ngoại tệ của NHNN, và tức là giảm khả năng can thiệp vào tỷ giá khi có các biến động vĩ mô bất lợi cho VND (3).
Bên cạnh những tác động tiêu cực lên cân đối thu chi ngân sách và, do đó, lên cung cầu hàng hóa, hành động bình ổn giá cả còn vô tác dụng nếu nó chỉ được thực hiện ở một hay một số địa phương. Việc thực hiện bình ổn giá ở TP.HCM theo lý thuyết sẽ ổn định được giá cả tại đó. Vì chênh lệch giá giữa nơi này và các địa phương trong cả nước, nhất là địa phương lân cận, thương nhân ở các địa phương sẽ đến mua hàng ở đây mang về địa phương mình bán, hưởng chênh lệch giá. Vì thế, theo thời gian, có thể là rất ngắn, chỉ một vài ngày hoặc vài tuần, chênh lệch giá cả sẽ biến mất giữa các địa phương, theo đúng quy luật cung cầu. Nói cách khác, một mình giới doanh nghiệp và thương nghiệp ở TP.HCM sẽ không đủ sức để cáng đáng bình ổn giá cả cho toàn bộ một vùng rộng lớn hơn, nếu không nói là cả nước. Rốt cuộc, của Thiên trả Địa, và mục đích bình ổn, dù chỉ là tại một địa phương, sẽ không được thực hiện.
Lưu ý thêm rằng ở đây chúng ta không đề cập đến chuyện gian lận trong việc thực hiện chương trình bình ổn giá, mặc dù chuyện này dường như không thể tránh khỏi, và do đó làm giảm hơn nữa hiệu quả của việc làm này.
Tóm lại, xem xét kỹ tác động và hậu quả thì hoàn toàn không nên lặp lại hình thức bình ổn giá, một hình thức thu hẹp và biến tướng của chính sách bao cấp về giá trong cả nền kinh tế thời cách đây 2-3 thập kỷ, vốn đã được thực tế chứng minh là một thất bại. Vì thế, những chủ trương "thí điểm" và "nhân rộng" việc bình ổn giá, coi đó là một chìa khóa thành công trong việc kiểm soát lạm phát ở những nơi như TP.HCM và Hà Nội cần phải được xem xét lại sớm nhất có thể.
_______________________
Chú thích:
(1). Trường hợp này xảy ra khi NHNN không can thiệp gì vào thị trường ngoại hối và tiền tệ. Hành động hoán đổi ngoại tệ đi vay ra VND của Chính phủ để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp tham gia bình ổn giá ở Việt Nam sẽ làm cầu VND tăng lên, dẫn đến lãi suất VND cũng tăng lên tương ứng so với USD.
(2). Nếu NHNN theo đuổi chính sách ổn định lãi suất VND thì lúc này NHNN buộc phải tăng cung VND tương ứng với lượng ngoại tệ mới tăng thêm trong nền kinh tế do vay mượn từ nước ngoài theo tỷ giá hiện thời
(3). Khi đến hạn trả nợ lãi và vốn vay, Chính phủ phải tiếp tục một lần nữa vay mượn VND trên thị trường trong nước để mua ngoại tệ, hoặc trực tiếp vay nước ngoài bằng ngoại tệ, lặp lại vòng luẩn quẩn nói trên. Trường hợp xấu hơn, Chính phủ buộc phải vay ngoại tệ trực tiếp từ quỹ dự trữ ngoại tệ NHNN để trả nợ.
Sunday, 20 November 2011
Luật phòng chống rửa tiền: Đừng làm 'cho có' (dang tren VEF)
(VEF.VN) - Luật phòng chống rửa tiền, khi được ban hành và thực thi nghiêm túc, sẽ mang lại những lợi ích thiết thực. Ngược lại, nếu chỉ là làm ra để cho có, để đối phó với các yêu cầu của quốc tế, kết quả cũng sẽ chẳng được đến đâu.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang tổ chức lấy ý kiến đóng góp xây dựng Luật phòng chống rửa tiền. Về mặt nội dung, có thể nói rằng bản dự thảo Luật phòng chống rửa tiền của NHNN đã được soạn thảo một cách khá gần, khá giống với các chuẩn mực quốc tế, và chắc đây là kết quả của quá trình tham khảo các chuẩn mực này cũng như các chuyên gia quốc tế.
Có điều, trong Bản thuyết minh chi tiết dự thảo Luật phòng chống rửa tiền, NHNN dường như chưa nhận thức được đầy đủ sự cần thiết ban hành Luật này. Điều này thể hiện ở việc NHNN chỉ nêu ra 3 lý do tại sao phải xây dựng và ban hành Luật phòng chống rửa tiền, bao gồm: (i) khắc phục bất cập của các quy định pháp luật hiện hành (cụ thể, bất cập về hiệu lực pháp lý của văn bản luật hiện hành, về đối tượng báo cáo và các biện pháp phòng chống rửa tiền); (ii) đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập (cụ thể các quy định hiện hành chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế, và do đó làm ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam, tạo tâm lý e ngại cho nhà đầu tư nước ngoài, gây khó khăn cho cá nhân và tổ chức Việt Nam kinh doanh tại nước ngoài..v.v... ); và (iii) đảm bảo tuân thủ các cam kết quốc tế (cụ thể, các quy định hiện hành chưa nội luật hóa được các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên..v.v... ).
Với những lý do hạn chế như trên, vô hình trung NHNN coi Luật phòng chống rửa tiền chỉ là một hành động đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi từ bên ngoài mà không xác định được rằng, Luật phòng chống rửa tiền nếu được ban hành và thực thi nghiêm túc thì sẽ còn mang lại những lợi ích thiết thực cho chính Chính phủ, các tổ chức, và cá nhân Việt Nam. Nếu không xác định được như vậy, Luật phòng chống rửa tiền sẽ rốt cuộc chỉ là làm ra để cho có, để đối phó với các yêu cầu của quốc tế, nên kết quả cũng sẽ chẳng được đến đâu. Điều đó giống như thừa nhận của các cơ quan hữu trách rằng trong 6 năm kể từ khi ban hành Nghị định 74 về phòng chống rửa tiền họ không phát hiện được vụ rửa tiền nào.
Đã có khá nhiều nghiên cứu và đánh giá của các tổ chức tài chính đa phương như IMF, WB và ADB về tác động tiêu cực của rửa tiền lên các mặt kinh tế xã hội của các quốc gia. Và vì thế, các quốc gia cần phải nỗ lực và chủ động tiến hành các hoạt động đề phòng, phát hiện, đấu tranh và loại trừ các hoạt động rửa tiền trong phạm vi quốc gia và phối hợp với các nước trong khu vực và quốc tế để làm tốt công tác này ở phạm vi xuyên quốc gia, tất cả cho chính lợi ích của mình.
Cụ thể hơn:
- Rửa tiền sẽ làm suy yếu hệ thống tài chính và do đó làm xói mòn việc tích tụ vốn trong nước
- Rửa tiền sẽ làm suy yếu bản thân các tổ chức tài chính. Bên trong các tổ chức này thường có mối tương quan giữa rửa tiền và các hoạt động gian lận của nhân viên của mình. Nếu ở mức độ lớn, hoạt động rửa tiền sẽ làm cho cả hệ thống tài chính ở các nước đang phát triển trở nên dễ bị tổn thương bởi tham nhũng và sự kiểm tỏa của các đối tượng tội phạm tìm cách khống chế hơn nữa các kênh rửa tiền hợp pháp của chúng.
- Đặc biệt là ở các nước đang phát triển, lòng tin của khách hàng là điều thiết yếu cho sự phát triển của các tổ chức tài chính lành mạnh. Nếu người gửi tiền và các nhà đầu tư nhận thức được rằng rủi ro đã tăng lên vì tham nhũng và gian lận một cách có tổ chức thì họ sẽ nhanh chóng đánh mất lòng tin này.
Ngược lại, bằng cách bảo vệ và ngăn ngừa các tổ chức tài chính khỏi các tác động tiêu cực của rửa tiền, các chính sách chống rửa tiền của Chính phủ cũng như của từng ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng và thị trường chứng khoán sẽ củng cố được các tập quán quản trị đúng đắn rất cần thiết cho sự phát triển của các tổ chức có vai trò quyết định đến tăng trưởng kinh tế này.
Không phải là những điều xa lạ, các chính sách chống rửa tiền cơ bản như Biết về khách hàng của mình (Know Your Customer, hay KYC) và kiểm soát nội bộ chặt chẽ là những nguyên tắc căn bản trường tồn trong giám sát, chế tài và hoạt động của các tổ chức tài chính một cách đúng đắn, đứng từ cả góc độ của cơ quan quản lý nhà nước (ví dụ NHNN, Bộ Tài chính) cũng như của từng ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Rửa tiền sẽ làm suy yếu nền kinh tế thực
- Rửa tiền có tác dụng tiêu cực trực tiếp và lớn hơn lên tăng trưởng của nền kinh tế thực thông qua việc chuyển hướng các nguồn lực khan hiếm đến các khu vực/hoạt động ít hiệu quả hơn. Tiền sau khi "rửa" thường được đầu tư vào những nơi không tạo ra thêm (nhiều) giá trị thặng dư như bất động sản, đồ cổ, tác phẩm nghệ thuật, đồ trang sức và ô tô sang. Nhập khẩu những mặt hàng xa xỉ này hay đầu tư vào những ngành không tạo giá trị thặng dư có tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
- Rửa tiền sẽ kích thích sự phát triển của nạn hối lộ và phạm tội trong nước, từ đó làm suy yếu tăng trưởng kinh tế. Tội phạm rửa tiền có thể biến các doanh nghiệp lành mạnh thành nơi phục vụ chủ yếu mục đích rửa tiền chứ không phải là theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận hợp pháp, dẫn đến giảm tăng trưởng. Ngược lại, các bằng chứng thực tế cho thấy công tác phòng chống rửa tiền hữu hiệu sẽ giúp giảm nạn tham nhũng và tỷ lệ tội phạm.
- Rửa tiền sẽ tác động tiêu cực đến thương mại và lưu chuyển vốn
- Rửa tiền có thể dẫn đến sự méo mó về ngoại thương, với nhập khẩu các mặt hàng xa xỉ tăng mạnh nhờ tiền đã được rửa. Rửa tiền còn dẫn đến chảy máu vốn ra nước ngoài (capital flight) dưới bàn tay điều khiển của các tổ chức tài chính nội địa và/hoặc nước ngoài trong các đường dây rửa tiền xuyên quốc gia, dẫn đến khan hiếm vốn ngoại tệ thiết yếu cho các hoạt động kinh tế nội địa.
Thay cho kết luận, NHNN phải nỗ lực tuyên truyền và có các chế tài hợp lý cho việc áp dụng và thực thi của Luật, cũng như tự bản thân mình phải nhận định đúng đắn và đầy đủ hơn về ý nghĩa và mục đích của phòng chống rửa tiền ở phạm vi quốc gia và trong các nỗ lực hợp tác quốc tế.
Chỉ khi nào phòng chống rửa tiền được coi không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn được hiểu rõ là quyền lợi, lợi ích sát sườn của từng cá nhân, tổ chức có liên quan thì lúc đó việc cho ra đời Luật phòng chống rửa tiền mới có ý nghĩa và mới mong được thực thi một cách nghiêm túc, hiệu quả.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang tổ chức lấy ý kiến đóng góp xây dựng Luật phòng chống rửa tiền. Về mặt nội dung, có thể nói rằng bản dự thảo Luật phòng chống rửa tiền của NHNN đã được soạn thảo một cách khá gần, khá giống với các chuẩn mực quốc tế, và chắc đây là kết quả của quá trình tham khảo các chuẩn mực này cũng như các chuyên gia quốc tế.
Có điều, trong Bản thuyết minh chi tiết dự thảo Luật phòng chống rửa tiền, NHNN dường như chưa nhận thức được đầy đủ sự cần thiết ban hành Luật này. Điều này thể hiện ở việc NHNN chỉ nêu ra 3 lý do tại sao phải xây dựng và ban hành Luật phòng chống rửa tiền, bao gồm: (i) khắc phục bất cập của các quy định pháp luật hiện hành (cụ thể, bất cập về hiệu lực pháp lý của văn bản luật hiện hành, về đối tượng báo cáo và các biện pháp phòng chống rửa tiền); (ii) đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập (cụ thể các quy định hiện hành chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế, và do đó làm ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam, tạo tâm lý e ngại cho nhà đầu tư nước ngoài, gây khó khăn cho cá nhân và tổ chức Việt Nam kinh doanh tại nước ngoài..v.v... ); và (iii) đảm bảo tuân thủ các cam kết quốc tế (cụ thể, các quy định hiện hành chưa nội luật hóa được các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên..v.v... ).
Với những lý do hạn chế như trên, vô hình trung NHNN coi Luật phòng chống rửa tiền chỉ là một hành động đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi từ bên ngoài mà không xác định được rằng, Luật phòng chống rửa tiền nếu được ban hành và thực thi nghiêm túc thì sẽ còn mang lại những lợi ích thiết thực cho chính Chính phủ, các tổ chức, và cá nhân Việt Nam. Nếu không xác định được như vậy, Luật phòng chống rửa tiền sẽ rốt cuộc chỉ là làm ra để cho có, để đối phó với các yêu cầu của quốc tế, nên kết quả cũng sẽ chẳng được đến đâu. Điều đó giống như thừa nhận của các cơ quan hữu trách rằng trong 6 năm kể từ khi ban hành Nghị định 74 về phòng chống rửa tiền họ không phát hiện được vụ rửa tiền nào.
Đã có khá nhiều nghiên cứu và đánh giá của các tổ chức tài chính đa phương như IMF, WB và ADB về tác động tiêu cực của rửa tiền lên các mặt kinh tế xã hội của các quốc gia. Và vì thế, các quốc gia cần phải nỗ lực và chủ động tiến hành các hoạt động đề phòng, phát hiện, đấu tranh và loại trừ các hoạt động rửa tiền trong phạm vi quốc gia và phối hợp với các nước trong khu vực và quốc tế để làm tốt công tác này ở phạm vi xuyên quốc gia, tất cả cho chính lợi ích của mình.
Cụ thể hơn:
- Rửa tiền sẽ làm suy yếu hệ thống tài chính và do đó làm xói mòn việc tích tụ vốn trong nước
- Rửa tiền sẽ làm suy yếu bản thân các tổ chức tài chính. Bên trong các tổ chức này thường có mối tương quan giữa rửa tiền và các hoạt động gian lận của nhân viên của mình. Nếu ở mức độ lớn, hoạt động rửa tiền sẽ làm cho cả hệ thống tài chính ở các nước đang phát triển trở nên dễ bị tổn thương bởi tham nhũng và sự kiểm tỏa của các đối tượng tội phạm tìm cách khống chế hơn nữa các kênh rửa tiền hợp pháp của chúng.
- Đặc biệt là ở các nước đang phát triển, lòng tin của khách hàng là điều thiết yếu cho sự phát triển của các tổ chức tài chính lành mạnh. Nếu người gửi tiền và các nhà đầu tư nhận thức được rằng rủi ro đã tăng lên vì tham nhũng và gian lận một cách có tổ chức thì họ sẽ nhanh chóng đánh mất lòng tin này.
Ngược lại, bằng cách bảo vệ và ngăn ngừa các tổ chức tài chính khỏi các tác động tiêu cực của rửa tiền, các chính sách chống rửa tiền của Chính phủ cũng như của từng ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng và thị trường chứng khoán sẽ củng cố được các tập quán quản trị đúng đắn rất cần thiết cho sự phát triển của các tổ chức có vai trò quyết định đến tăng trưởng kinh tế này.
Không phải là những điều xa lạ, các chính sách chống rửa tiền cơ bản như Biết về khách hàng của mình (Know Your Customer, hay KYC) và kiểm soát nội bộ chặt chẽ là những nguyên tắc căn bản trường tồn trong giám sát, chế tài và hoạt động của các tổ chức tài chính một cách đúng đắn, đứng từ cả góc độ của cơ quan quản lý nhà nước (ví dụ NHNN, Bộ Tài chính) cũng như của từng ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Rửa tiền sẽ làm suy yếu nền kinh tế thực
- Rửa tiền có tác dụng tiêu cực trực tiếp và lớn hơn lên tăng trưởng của nền kinh tế thực thông qua việc chuyển hướng các nguồn lực khan hiếm đến các khu vực/hoạt động ít hiệu quả hơn. Tiền sau khi "rửa" thường được đầu tư vào những nơi không tạo ra thêm (nhiều) giá trị thặng dư như bất động sản, đồ cổ, tác phẩm nghệ thuật, đồ trang sức và ô tô sang. Nhập khẩu những mặt hàng xa xỉ này hay đầu tư vào những ngành không tạo giá trị thặng dư có tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
- Rửa tiền sẽ kích thích sự phát triển của nạn hối lộ và phạm tội trong nước, từ đó làm suy yếu tăng trưởng kinh tế. Tội phạm rửa tiền có thể biến các doanh nghiệp lành mạnh thành nơi phục vụ chủ yếu mục đích rửa tiền chứ không phải là theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận hợp pháp, dẫn đến giảm tăng trưởng. Ngược lại, các bằng chứng thực tế cho thấy công tác phòng chống rửa tiền hữu hiệu sẽ giúp giảm nạn tham nhũng và tỷ lệ tội phạm.
- Rửa tiền sẽ tác động tiêu cực đến thương mại và lưu chuyển vốn
- Rửa tiền có thể dẫn đến sự méo mó về ngoại thương, với nhập khẩu các mặt hàng xa xỉ tăng mạnh nhờ tiền đã được rửa. Rửa tiền còn dẫn đến chảy máu vốn ra nước ngoài (capital flight) dưới bàn tay điều khiển của các tổ chức tài chính nội địa và/hoặc nước ngoài trong các đường dây rửa tiền xuyên quốc gia, dẫn đến khan hiếm vốn ngoại tệ thiết yếu cho các hoạt động kinh tế nội địa.
Thay cho kết luận, NHNN phải nỗ lực tuyên truyền và có các chế tài hợp lý cho việc áp dụng và thực thi của Luật, cũng như tự bản thân mình phải nhận định đúng đắn và đầy đủ hơn về ý nghĩa và mục đích của phòng chống rửa tiền ở phạm vi quốc gia và trong các nỗ lực hợp tác quốc tế.
Chỉ khi nào phòng chống rửa tiền được coi không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn được hiểu rõ là quyền lợi, lợi ích sát sườn của từng cá nhân, tổ chức có liên quan thì lúc đó việc cho ra đời Luật phòng chống rửa tiền mới có ý nghĩa và mới mong được thực thi một cách nghiêm túc, hiệu quả.
Tuesday, 15 November 2011
Bong bóng BĐS - ngân hàng: Tội đồ và nạn nhân (Đăng trên VEF; cắt thành 2 bài với tiêu đề do đồng chí biên tập đặt ở bài 2 để câu khách hơn)
VEF.VN) - Câu hỏi khó trả lời là tại sao bất chấp những kinh nghiệm đau đớn nhãn tiền về chuyện hình thành và xì hơi bong bóng bất động sản, kéo theo bao hệ lụy cho hệ thống ngân hàng từ trước đến nay, mà các nhà băng vẫn không ngán ngại, sẵn sàng dốc thêm hầu bao?
Trong các bài viết trước, tác giả đã đề cập sơ bộ sự liên can của hệ thống ngân hàng với nguồn vốn tín dụng dư giả rót vào thị trường bất động sản như là một trong những nguyên nhân chính nung nóng thị trường này.
Ở bài viết này, chúng ta sẽ xem xét một cách cặn kẽ hơn cơ chế gây sốt bất động sản và vai trò của ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nói riêng, cũng như các nguyên nhân gây ra xì hơi bất động sản và tác động của nó lên hệ thống ngân hàng để từ đó rút ra được những bài học chính sách cho việc quản trị rủi ro trong hệ thống ngân hàng; đồng thời, ngăn chặn một cuộc khủng hoảng ngân hàng xuất phát từ sự sụp đổ thị trường bất động sản (nếu có) trong tương lai.
Bong bóng bất động sản ở đâu ra?
Bên cạnh những lý do cổ điển như nguồn cung không dồi dào (một cách tương đối, ít nhất là trong ngắn hạn) và sự lạc quan thái quá vào tương lai thị trường (ví dụ như trước và sau khi công bố một đồ án quy hoạch vùng nào đó), câu trả lời cho các cơn sốt bất động sản hiển nhiên và dễ thấy là do, như đã nói, sự tiếp tay của hệ thống ngân hàng, thi nhau bơm vốn vào thị trường bất động sản.
Mặc dù số liệu của NHNN công bố cho thấy tỷ lệ dư nợ tín dụng bất động sản trong tổng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế trong mấy năm qua chỉ ở dưới 15-16%, điều đáng chú ý là con số tuyệt đối thì tăng rất nhanh vì tổng tín dụng cũng tăng rất nhanh với tốc độ bình quân chắc cũng lên đến trên 30%. Nếu như vào năm 2008, dư nợ tín dụng bất động sản mới là 138.000 tỷ đồng thì sang năm 2009 và 2010, con số này lần lượt là 184.000 tỷ và 235.000 tỷ. Tuy NHNN đã yêu cầu cắt giảm, dư nợ tín dụng bất động sản vẫn còn khoảng 221.000 tỷ đồng vào thời điểm tháng 6 năm nay. Cũng cần lưu ý thêm, đây mới chỉ là con số báo cáo trên sổ sách từ phía các ngân hàng thương mại, cho những khoản vay bất động sản hiển nhiên, chứ chưa tính tới một bộ phận tín dụng biến dạng dưới các hình thức khác. Hơn nữa, ngoài nguồn tín dụng ngân hàng, thị trường bất động sản còn thu hút thêm một lượng vốn không nhỏ từ kiều hối (tổng kiều hối ước tính khoảng trên 8 tỷ USD/năm), vốn tiết kiệm và tự có trong dân, và các nguồn vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp khác dưới hình thức này hay hình thức khác. Vì thế, không lấy làm lạ khi giá bất động sản đã tăng mạnh trong mấy năm qua kéo dài đến tận gần đây.
Nhưng câu hỏi liên quan và khó trả lời hơn là tại sao bất chấp những kinh nghiệm đau đớn nhãn tiền về chuyện hình thành và xì hơi bong bóng bất động sản kéo theo bao hệ lụy cho hệ thống ngân hàng từ trước cho đến gần đây mà các ngân hàng ngày nay vẫn không ngán ngại sẵn sàng dốc thêm hầu bao cho bất động sản?
Tại sao ngân hàng sẵn sàng rót vốn cho bất động sản?
Câu trả lời nằm ở lợi nhuận kỳ vọng khi đầu tư vào bất động sản. Có một số yếu tố quyết định hành vi cho vay của ngân hàng, trong đó có bất động sản, đã được nhiều học giả chỉ ra trong các mô hình lý thuyết và nghiên cứu thực chứng của họ. Trong bài này, chúng ta sẽ lựa chọn áp dụng một số trong những yếu tố đó để lý giải mối quan hệ giữa bất động sản và hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Mức tập trung cho vay vào thị trường bất động sản của các ngân hàng (tính theo tỷ lệ giữa khối lượng cho vay bất động sản với tổng vốn chủ sở hữu) sẽ càng lớn khi: (i) lợi nhuận kỳ vọng thu được từ cho vay bất động sản càng vượt trội so với chi phí cơ hội của nguồn vốn cho vay và khi lợi nhuận thu được từ các hoạt động cho vay khác không lớn và khác biệt nhiều một cách tương đối; (ii) giá trị kỳ vọng của các tài sản trong danh mục tài sản của ngân hàng tăng lên.
Ngược lại, các ngân hàng sẽ giảm mức độ tập trung này khi: (iii) xác suất kỳ vọng xảy ra mất khả năng thanh toán tăng lên; (iv) sự tương quan (xét về lợi nhuận) giữa bất động sản với các hạng mục khác trong danh mục tài sản của ngân hàng tăng lên; và (v) yêu cầu mức vốn tối thiểu tăng lên.
Dựa vào những yếu tố quyết định sự "dấn thân" của một ngân hàng nào đó vào bất động sản như nói ở trên, có thể rút ra 2 nhận định sau.
Nhận định thứ nhất, ngân hàng coi cho vay bất động sản là hấp dẫn khi họ kỳ vọng và thực tế thường là thu được lãi (gồm lãi cho vay và các loại phí) lớn hơn lãi cho vay doanh nghiệp (ví dụ, tờ SGTT cho biết các lãi suất liên quan đến bất động sản luôn cao hơn lãi suất cho vay bình thường từ 4 đến 7 điểm phần trăm). Cho vay bất động sản càng được khuyến khích khi ngân hàng được phép mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động đồng thời theo đuổi mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận.
Nhận định thứ hai, giá bất động sản tăng cũng trực tiếp khuyến khích hành vi cho vay vào thị trường này theo 2 cách.
Cách thứ nhất, tài sản bất động sản nắm giữ của ngân hàng tăng lên về giá trị sẽ làm tăng phần giá trị theo thị giá (economic value) của phần vốn chủ sở hữu của ngân hàng, từ đó làm cho ngân hàng sẵn lòng cho vay bất động sản nhiều hơn.
Cách thứ hai, khi giá trị tài sản thế chấp cho các khoản vay bất động sản tăng lên thì rủi ro thua lỗ cho danh mục các khoản vay hiện hành của ngân hàng sẽ giảm đi, làm cho ngân hàng có thêm khả năng tăng cho vay mà không sợ làm tăng xác suất mất khả năng thanh toán. Tăng giá bất động sản còn tác động đến việc áp đặt xác suất mất vốn thấp hơn lên các khoản cho vay bất động sản mới (các ngân hàng áp đặt một cách chủ quan xác suất này).
Cần thừa nhận rằng các yếu tố ảnh hưởng đến và cơ chế tác động lên quyết định cho vay bất động sản như nói trên của ngân hàng không phải là mới mẻ và khó nhận biết, nhưng rõ ràng là các ngân hàng trên thực tế đã thường không đánh giá đúng được mức độ rủi ro khi cho vay bất động sản. Bởi vậy, câu hỏi quan trọng đặt ra là tại sao ngân hàng lại ước tính không đúng mức (đánh giá thấp) các rủi ro của việc tập trung cho vay quá mức vào bất động sản? Có 2 cách giải thích phù hợp: (i) các ngân hàng đánh giá thấp đi rủi ro vì họ xem nhẹ khả năng xảy ra các cơn sốc; (ii) các ngân hàng phớt lờ rủi ro vì có những động cơ khuyến khích họ làm càn.
(i) Xem nhẹ khả năng xảy ra các cơn sốc
Khả năng ước tính được xác suất cho một cú sốc - ví dụ sự tụt dốc giá bất động sản - phụ thuộc vào 2 yếu tố quan trọng là tần suất xảy ra các cú sốc và mức độ cạnh tranh trên thị trường.
Về tần suất xảy ra các cú sốc, nếu một cú sốc nào đó xảy ra với tần suất cao thì đó thường không phải là nguồn gây ra rủi ro mất thanh khoản cho ngân hàng vì ngân hàng đó có thể ước tính được mức độ rủi ro này với một mức độ đáng tin cậy lớn, và từ đó có những biện pháp đối phó hữu hiệu. Ví dụ, rủi ro mất khả năng chi trả ở các khoản vay thẻ tín dụng và vay mua ô tô là những rủi ro thường xảy ra và vì thế ngân hàng có đủ kiến thức, kinh nghiệm và động cơ để tính đủ giá và phí cho những khoản vay này cũng như trích đủ dự phòng để giảm thiểu tác động khi xảy ra thiệt hại.
Ngược lại, câu chuyện sẽ khác đi nếu những cú sốc xảy ra không thường xuyên với xác suất không chắc chắn. Khi thời gian trôi đi, người ta có xu hướng đánh giá thấp đi xác suất xảy ra các cú sốc có tần suất thấp, ngay cả khi xác suất đó không đổi hoặc thậm chí đã tăng lên. Trong trường hợp như vậy, ngân hàng sẽ có xu hướng cho vay nhiều hơn so với trạng thái vốn của nó cho phép, và cả hệ thống ngân hàng trở nên dễ bị tổn thương hơn bởi một thảm họa nào đó. Đây là cả một quá trình âm thầm và có thể đẩy cả hệ thống ngân hàng vào thảm họa mà không một ai nhận ra mình đã tăng mức phơi nhiễm với rủi ro.
Tính dễ mắc phải căn bệnh này thường tự tăng tiến bởi một số yếu tố mang tính thể chế. Ví dụ, hệ thống kế toán quản trị có thể vô tình khuyến khích các hoạt động thuộc nhóm có các cơn sốc tần suất thấp. Mặc dù các thông lệ kế toán chuẩn mực phát huy tác dụng tốt trong việc giám sát, định giá và trích lập dự phòng cho các cơn sốc thuộc nhóm có tần suất cao, chúng lại không có mấy tác dụng trong việc kiểm soát mức phơi nhiễm đối với các cơn sốc thuộc nhóm có tần suất thấp, vì chúng xảy ra ít đến độ chúng hiếm khi được phản ánh trong giai đoạn báo cáo.
Cụ thể hơn, do trong những năm báo cáo trước đó không có/bao gồm kết quả xấu do một cơn sốc (thuộc nhóm có tần suất thấp) xảy ra được ghi nhận dưới dạng các dữ liệu kế toán nên dẫn đến xu hướng là phí bảo hiểm mất khả năng thanh toán và quỹ dự phòng ngày càng bị tính thấp đi. Hơn nữa, trong trường hợp không có trích dự phòng thích đáng cho những khoản thiệt hại tiềm năng, các hành động thuộc nhóm có cơn sốc tần suất thấp sẽ tỏ ra có tính sinh lợi cao.
Ảo giác về tính sinh lợi cao này lại tạo ra thêm những vấn đề khác. Nếu lương và thưởng của nhân viên ngân hàng được tính dựa trên lợi nhuận báo cáo ngắn hạn (không được điều chỉnh theo quỹ dự phòng cho các cơn sốc), thì nhân viên đó - là người ở vị trí thuận lợi nhất đánh giá được các hiểm họa - sẽ có lợi, và do đó, phớt lờ các hiểm họa này.
Về mức độ cạnh tranh, trong các thị trường cạnh tranh cao độ, đối với những ngân hàng không bị mắc phải căn bệnh xem nhẹ khả năng xảy ra sốc, sẽ rất khó cho họ tính đúng và đủ phí và lãi suất cho vay các khoản vay dựa trên xác suất xảy ra sốc trong khi các ngân hàng khác (mắc căn bệnh này) định giá và phí dựa trên nhận thức (sai lầm) rằng xác suất xảy ra sốc là bằng 0. Thêm nữa, trong thị trường cạnh tranh, khi có một ngân hàng nào đó đang hưởng mức lợi nhuận lớn hơn trung bình (nhờ vào việc không tính dự phòng cho sốc trong tương lai), các ngân hàng khác sẽ bị hấp dẫn và nhảy vào với hành động tương tự, làm suy giảm mức lợi nhuận mà ngân hàng kia được hưởng. Điều này buộc ngân hàng kia phải phản ứng bằng cách tăng cường các khoản cho vay rủi ro. Bởi thế, có thể nói sự cạnh tranh làm cho ngân hàng ngày càng dễ tổn thương khi có một cơn sốc lớn, ví dụ như tụt dốc giá bất động sản, xảy ra.
Một khi cơn sốc xảy ra thì căn bệnh xem nhẹ khả năng xảy ra sốc lại dễ dàng biến thành căn bệnh ngược lại, phóng đại khả năng xảy ra sốc theo nguyên lý "con chim bị tên nhìn thấy cành cong cũng sợ". Lúc này các ngân hàng sẽ hạn chế cho vay và tăng phí bảo hiểm mất khả năng thanh toán trong bối cảnh (họ tin rằng) xác suất xảy ra sốc đã tăng lên.
Sự sụt giảm đột ngột nguồn tín dụng cho thị trường bất động sản sẽ làm tăng thêm áp lực giảm giá bất động sản. Sụt giảm tín dụng cũng xảy ra tương tự trên các thị trường khác khi ngân hàng cố gắng tăng dự trữ và vốn để đối phó với rủi ro mất thanh khoản tăng lên.
Cơ quan quản lý và giám sát hệ thống ngân hàng, là NHNN trong trường hợp này, có thể cũng đã bị nhiễm căn bệnh xem nhẹ khả năng xảy ra sốc; do đó, cũng hoàn toàn có thể đã bị nhiễm căn bệnh phóng đại khả năng xảy ra sốc. Bằng chứng là ngay cả trong báo cáo hoạt động cuối năm 2010 (1), NHNN vẫn cho rằng tốc độ tăng trưởng dư nợ bất động sản 23,5% so với năm 2009 "là điều có thể chấp nhận được", và rằng chất lượng tín dụng đối với lĩnh vực này "cũng được đảm bảo". Nhưng thông điệp mà NHNN phát ra từ đầu năm nay cho đến bây giờ dường như ngày càng ở thái cực ngược lại. Trên hết, điều đáng nói ở đây là trong bối cảnh (họ tin rằng) xác suất xảy ra sốc đã tăng NHNN có thể sẽ tăng cường bảo vệ hệ thống ngân hàng bằng cách kiên quyết áp dụng tỷ lệ vốn tối thiểu cao hơn và tỷ lệ trích quỹ dự phòng cao hơn cho những khoản thiệt hại tiềm năng (và trên thực tế điều này đã xảy ra với việc NHNN áp dụng tỷ lệ trích lập dự phòng lên tới 250% cho bất động sản thay vì 50% cho vay tiêu dùng). Điều này làm khó thêm thị trường bất động sản nói riêng và các ngành kinh tế khác nói chung, tương tự như phân tích ở đoạn trên.
(ii) Những động cơ khuyến khích sự làm càn
Các dự án bất động sản thường có tỷ lệ đòn bẩy tài chính rất cao. Các chủ dự án thông thường chỉ bắt đầu dự án với một số vốn tối thiểu (ví dụ theo báo chí Việt Nam thì ở không ít trường hợp con số này chỉ là 10% giá trị dự án) nhằm đẩy rủi ro càng nhiều càng tốt sang phía chủ nợ. Các ngân hàng nói chung cố gắng tự vệ bằng cách yêu cầu duy trì tỷ lệ vốn vay/giá trị bất động sản ở mức thấp, bảo lãnh, điều khoản chiếm giữ trong cam kết cho vay dài hạn, và các quy ước hợp đồng cho vay chặt chẽ.
Khi bối cảnh cho căn bệnh xem nhẹ khả năng xảy ra sốc nói ở trên xảy ra, ngân hàng cho rằng họ có thể chấp nhận tỷ lệ vốn vay/giá trị bất động sản cao hơn, các cam kết hay bảo lãnh yếu hơn, và các quy ước hợp đồng cho vay lỏng lẻo hơn mà không làm tăng rủi ro mất vốn. Hơn nữa, sự cạnh tranh gay gắt từ những ngân hàng mắc cùng căn bệnh này có thể buộc các ngân hàng có quản trị rủi ro tốt hoặc phải chấp nhận những chuẩn mực cho vay thấp hơn hoặc phải rút khỏi thị trường. Trong hoàn cảnh như vậy, rõ ràng lợi thế nghiêng về phía các chủ dự án khi họ có thể trục lợi từ các ngân hàng chủ nợ bằng cách lao vào các dự án có mức độ rủi ro cao hơn.
Các ngân hàng cũng có những động cơ để làm càn. Một số ngân hàng có thể phớt lờ rủi ro của việc xảy ra một thảm họa vì họ tin rằng họ sẽ được bảo vệ trong trường hợp xảy ra thảm họa (ví dụ bằng quỹ bảo hiểm tiền gửi, bằng cam kết của NHNN không để hệ thống ngân hàng đổ vỡ v.v...)
Sự bảo vệ ngầm định và công khai như vậy làm nảy sinh rủi ro đạo đức cho cả phía người gửi tiền và phía ngân hàng. Người gửi tiền thì chẳng quan tâm đến việc tìm hiểu và gây áp lực đòi hỏi các hoạt động của ngân hàng phải theo hướng an toàn hơn. Kết cục là giới quản lý ngân hàng tìm mọi cách để tăng lợi tức kỳ vọng cho cổ đông của mình thông qua, ví dụ, thay thế các tài sản an toàn hơn bằng các tài sản rủi ro hơn, chẳng hạn như bất động sản thương mại. Kể cả khi giá bất động sản tụt giảm làm tăng khả năng mất vốn, ngân hàng vẫn muốn tiếp tục mạo hiểm hơn vì lợi nhuận (nếu có) thì họ (cổ đông ngân hàng) tiếp tục được hưởng còn thiệt hại (nếu có) thì chủ nợ của họ - quỹ bảo hiểm tiền gửi và người nộp thuế - phải chịu.
Thậm chí trong trường hợp con nợ, ví dụ chủ dự án bất động sản, không còn khả năng trả lãi vay thì ngân hàng vẫn tiếp tục muốn cho vay tiếp để con nợ có tiền trả lãi vay và ngân hàng thì có thể trì hoãn việc phải ghi giảm giá trị khoản vay hiện tại trên sổ sách, một thủ thuật kế toán theo đó thì những tài sản có thị giá lớn hơn giá trị sổ sách sẽ được bán đi, còn những tài sản có thị giá thấp hơn giá trị sổ sách sẽ được giữ lại.
Động cơ khuyến khích sự làm càn còn được tìm thấy ở phía các cơ quan hữu trách (ví dụ, ngân hàng trung ương). Khi giá bất động sản tụt dốc kéo theo nguy cơ đổ vỡ của hệ thống ngân hàng, thì cái giá phải trả cực lớn từ hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Ngân hàng trung ương, thay vì để cho ngân hàng phá sản dưới áp lực của thị trường, lại tìm mọi cách để che giấu và trì hoãn việc này. Lý do, phần vì để giải quyết đống đổ vỡ cần phải có nguồn lực vật chất và nhân sự rất lớn mà đôi khi họ không thể kham nổi, phần vì không muốn người ta đặt dấu hỏi vào khả năng quản lý của mình khi mọi chuyện vỡ ra, phần khác thì sợ rằng khi mình thú nhận khả năng đổ vỡ này sẽ làm xói mòn lòng tin công luận và châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính. Sự trì hoãn và che giấu còn do họ hy vọng (mặc dù rất mong manh) vào sự hồi phục của giá bất động sản về mức trước khi tụt dốc sau một thời gian nữa. Trên thực tế, các cơ quan hữu trách thường quyết định theo kiểu "để xem sao" và đánh cược vào khả năng giá bất động sản sẽ đảo ngược trong thời gian tới.
Bài học chính sách
Tóm lại, các bong bóng bất động sản ở Việt Nam nói riêng và ở trên thế giới nói chung thường bắt nguồn từ sự lạc quan thái quá và sự tiếp tay của hệ thống ngân hàng. Phạm vi và độ dài cơn sốt giá bất động sản càng tăng chừng nào ngân hàng còn tiếp tục rót vốn vào thị trường này. Đối với ngân hàng, sự sẵn sàng rót vốn vào bất động sản sẽ còn tiếp tục chừng nào họ (ngân hàng thương mại) và cơ quan hữu trách (ngân hàng trung ương) còn mắc căn bệnh xem nhẹ khả năng xảy ra sốc.
Rủi ro đạo đức đóng một vai trò then chốt, đặc biệt khi cổ đông ngân hàng có ít thứ để bị mất (và luôn ở thế "mặt ngửa thì tớ thắng, mặt xấp thì ai đó phải thua") còn người gửi tiền thì tin tưởng rằng họ sẽ được bảo vệ (bằng bảo hiểm tiền gửi). Những động cơ khuyến khích sự làm càn này sẽ chất lên vai cơ quan hữu trách một gánh nặng lớn - thường quá sức của họ. Khi trạng thái vốn của các ngân hàng thương mại bị suy yếu đi, cơ quan hữu trách thường chọn cách "để xem sao", hy vọng vào sự hồi phục màu nhiệm của giá bất động sản.
Giải pháp này có thể gây ra nhiều thiệt hại lớn. Nếu các ngân hàng bị suy yếu về vốn vẫn được phép hoạt động thì họ rất có thể chơi trò tống tiền dân nộp thuế như nêu ở trên, để rồi thiệt hại nếu có sẽ còn lớn hơn. Nếu họ không chơi trò này, họ cũng khó có thể làm ra đủ lợi nhuận để hồi phục vốn của mình trong một thời gian ấn định bởi còn một mớ lớn nợ xấu bất động sản. Thay vào đó, họ sẽ bán tài sản, thu hẹp cho vay mọi khu vực, ngành kinh tế và từ chối gia hạn các khoản vay hiện thời đến hạn thanh toán.
Trong nền kinh tế mà hệ thống ngân hàng đóng vai trò nguồn cung cấp tài chính chủ yếu như ở Việt Nam, điều này có thể gây ra tác động lớn đến đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, như cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã cho thấy, một nền kinh tế với một hệ thống ngân hàng yếu kém về vốn sẽ dễ bị tổn thương bởi các cú sốc ngoại lai như khủng hoảng ngoại hối, có thể hủy hoại nền kinh tế thực. Bởi vậy tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng và mối quan hệ của nó với thị trường bất động sản không những chỉ làm hình thành bong bóng bất động sản mà còn có thể có tác động lớn đến sự ổn định chung của cả nền kinh tế.
Nhận biết được cơ chế tương tác qua lại giữa thị trường bất động sản và hệ thống ngân hàng trong việc hình thành và xì hơi bong bóng bất động sản hy vọng sẽ là cơ sở để các nhà quản lý ở các ngân hàng thương mại và NHNN có những chính sách và hành vi hoạt động hợp lý hơn, hạn chế được các rủi ro phát sinh từ sự trồi sụt của thị trường bất động sản lây lan ra hệ thống ngân hàng nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung.
Bong bóng BĐS xì hơi, ngân hàng nào sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất?
Sự tăng lên của lãi suất cho vay bất động sản và sự sụt giảm của giá bất động sản là 2 trong số các yếu tố chính làm tăng tỷ lệ con nợ không trả (được) vốn vay bất động sản. Lãi suất cho vay cao làm giảm khả năng chi trả vì chi phí vay đã tăng cao hơn. Điều này có thể xảy ra khi nền kinh tế đã phát triển quá nóng với biểu hiện là lạm phát cao, và chính sách tiền tệ vì thế được thắt chặt như một biện pháp đối phó.
Với giá bất động sản, nếu nó sụt giảm đến mức nào đó thì con nợ sẽ chọn không trả nợ vay vì lúc đó giá trị của khoản vay trở nên lớn hơn giá trị bất động sản, kể cả đã tính vào đó phí giao dịch và chữ tín. Đặc biệt với các khoản vay thế chấp, việc có hay không trả nợ sẽ phụ thuộc vào biến động về giá trị của tài sản thế chấp. Giá nhà suy yếu, ví dụ, sẽ châm ngòi cho việc không trả nợ vốn vay có nhà ở làm thế chấp.
Ở Việt Nam, lãi suất cho vay thương mại cao nhất đã tăng lên 12%/năm vào cuối năm 2009 từ mức khoảng 10%/năm đầu năm 2009 và sau đó nhảy vọt lên 20%/năm vào tháng 3 năm 2010 và nằm ở mức cao hơn thế nữa cho đến thời gian này (lưu ý rằng các con số ở đây chỉ mang tính tương đối vì có nhiều báo cáo khác nhau cho các con số khác nhau). Đáng chú ý là lãi suất cao như vậy nhưng nó chưa gây ra sự suy thoái đáng kể nào cho thị trường bất động sản cho đến tận gần đây khi trùng hợp với lãi suất cao là sự đi xuống của giá bất động sản, cùng với yêu cầu của NHNN buộc các ngân hàng thương mại giảm tỷ trọng dư nợ tín dụng bất động sản. Các yếu tố này đã đẩy thị trường bất động sản vào trạng thái khó khăn mà nhiều người còn kỳ vọng đó mới chỉ là sự khởi đầu cho một cuộc lao dốc sắp tới.
Khi giá bất động sản sụt giảm, hệ quả tất yếu là tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản sẽ tăng vọt. Nhưng điều đáng nói ở đây là tỷ lệ này lại rất khác nhau giữa các ngân hàng thương mại, mặc dù chúng cùng nằm trong một hệ thống. Nói cách khác, có sự khác biệt rất rõ ràng về tính dễ bị tổn thương của các ngân hàng trên thị trường tín dụng bất động sản.
Thông thường, người ta cho rằng những ngân hàng có tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng vốn huy động cao, đồng thời có tỷ trọng lớn dư nợ cho vay bất động sản trong tổng dư nợ sẽ là những ngân hàng có khả năng dễ bị tổn thương nhất trong bối cảnh thị trường bất động sản lao dốc, bởi lúc đó gánh nặng nợ bất động sản xấu sẽ tăng vọt. Người ta cũng tin rằng các ngân hàng nhỏ thì sẽ dễ bị tổn thương hơn so với những ngân hàng lớn vì ngân hàng nhỏ thường là yếu về vốn nên khó xoay sở khi phải đối mặt với rủi ro thị trường.
Thế nhưng, một số nghiên cứu thực chứng cho thấy những kết quả chỉ một phần ủng hộ các nhận định trên, như nêu dưới đây:
- Mặc dù các ngân hàng lớn thường có tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản thấp hơn nhưng xác suất phải đối mặt với nhiều vấn đề khi nền kinh tế đi xuống sẽ cao hơn ở những ngân hàng này, vì tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản sẽ tăng lên nhanh hơn ở các ngân hàng này so với các ngân hàng nhỏ hơn.
- Những ngân hàng với chênh lệch lãi suất huy động và cho vay cao thường là những ngân hàng có những khoản cho vay bất động sản nhiều rủi ro hơn đồng thời có tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản cao hơn. Mặc dù có tính sinh lời cao, các ngân hàng này lại là những ngân hàng dễ bị tổn thương bởi các cú sốc gây ra do lãi suất tăng kéo theo sự gia tăng tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản.
- Những ngân hàng kém hiệu quả hơn (thể hiện qua tỷ trọng phí trên doanh thu lớn) sẽ dễ có tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản tăng vọt khi nền kinh tế xấu đi, mặc dù họ không nhất thiết có tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản cao hơn. Điều này cho thấy tầm quan trọng của chất lượng quản lý và việc cải thiện nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Những ngân hàng có tỷ trọng dư nợ cho vay bất động sản trong tổng dư nợ cao (có thể là do họ thường có một tỷ lệ thấp hơn về nợ xấu bất động sản) không phải là những ngân hàng dễ bị tổn thương hơn. Điều này thoạt nghe có vẻ nghịch lý nhưng lý do có thể là vì họ "chuyên" cho vay trong lĩnh vực bất động sản nhờ khả năng có thể cho vay các khoản vay tốt hơn trong thị trường bất động sản và, do đó, có tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản thấp hơn. Nếu họ cũng quản lý tốt được các rủi ro đi kèm thì họ cũng hoàn toàn có thể ít bị tổn thương hơn những ngân hàng "không chuyên" trong lĩnh vực cho vay bất động sản.
- Những ngân hàng mở rộng tăng trưởng tín dụng nhanh hơn thường có tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản cao hơn.
Tóm lại, các kết quả nghiên cứu thực chứng nói trên cho thấy có sự khác biệt lớn giữa các ngân hàng về khả năng chịu đựng các cú sốc mang lại từ các biến động vĩ mô trong đó có tăng lãi suất, tụt giảm giá bất động sản, và giảm tăng trưởng kinh tế v.v... là những yếu tố tác động tiêu cực đến thị trường bất động sản. Những ngân hàng dễ bị tổn thương nhất là những ngân hàng có tốc độ tăng trưởng cho vay cao, có hiệu quả hoạt động thấp, và hoạt động cho vay bất động sản một cách tích cực.
Trong khi kết luận rằng các ngân hàng có hiệu quả hoạt động kém thường có xác suất đối mặt với khó khăn cao hơn không phải là một kết luận gây ngạc nhiên, ở đây chúng ta xác định được thêm ít nhất một đặc tính thường bị bỏ qua nữa, cụ thể là, tốc độ tăng trưởng cho vay cao là dấu hiệu của sự dễ bị tổn thương khi có cú sốc vĩ mô. Ngoài ra, các kết luận trên còn chỉ ra một sai lầm về chính sách ở Việt Nam khi NHNN đang đặt con mắt cảnh giác vào những ngân hàng có tỷ trọng dư nợ cho vay bất động sản lớn và đang bắt những ngân hàng thuộc nhóm này phải hạ thấp tỷ trọng này về mức chung của cả hệ thống ngân hàng, bất chấp thực tế có thể họ là những "chuyên gia" bất động sản.
Ngoài ra, các kết luận khác cũng có thể mang lại những hàm ý chính sách cho NHNN trong công tác theo dõi, giám sát, và thanh tra các hoạt động ngân hàng thương mại nhằm giảm rủi ro đổ vỡ hệ thống xuất phát từ các ngân hàng dễ bị tổn thương nhất từ các cú sốc vĩ mô.
_____________________________
(1) http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/bat-dong-san/2010/12/3ba249fb/
Trong các bài viết trước, tác giả đã đề cập sơ bộ sự liên can của hệ thống ngân hàng với nguồn vốn tín dụng dư giả rót vào thị trường bất động sản như là một trong những nguyên nhân chính nung nóng thị trường này.
Ở bài viết này, chúng ta sẽ xem xét một cách cặn kẽ hơn cơ chế gây sốt bất động sản và vai trò của ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nói riêng, cũng như các nguyên nhân gây ra xì hơi bất động sản và tác động của nó lên hệ thống ngân hàng để từ đó rút ra được những bài học chính sách cho việc quản trị rủi ro trong hệ thống ngân hàng; đồng thời, ngăn chặn một cuộc khủng hoảng ngân hàng xuất phát từ sự sụp đổ thị trường bất động sản (nếu có) trong tương lai.
Bong bóng bất động sản ở đâu ra?
Bên cạnh những lý do cổ điển như nguồn cung không dồi dào (một cách tương đối, ít nhất là trong ngắn hạn) và sự lạc quan thái quá vào tương lai thị trường (ví dụ như trước và sau khi công bố một đồ án quy hoạch vùng nào đó), câu trả lời cho các cơn sốt bất động sản hiển nhiên và dễ thấy là do, như đã nói, sự tiếp tay của hệ thống ngân hàng, thi nhau bơm vốn vào thị trường bất động sản.
Mặc dù số liệu của NHNN công bố cho thấy tỷ lệ dư nợ tín dụng bất động sản trong tổng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế trong mấy năm qua chỉ ở dưới 15-16%, điều đáng chú ý là con số tuyệt đối thì tăng rất nhanh vì tổng tín dụng cũng tăng rất nhanh với tốc độ bình quân chắc cũng lên đến trên 30%. Nếu như vào năm 2008, dư nợ tín dụng bất động sản mới là 138.000 tỷ đồng thì sang năm 2009 và 2010, con số này lần lượt là 184.000 tỷ và 235.000 tỷ. Tuy NHNN đã yêu cầu cắt giảm, dư nợ tín dụng bất động sản vẫn còn khoảng 221.000 tỷ đồng vào thời điểm tháng 6 năm nay. Cũng cần lưu ý thêm, đây mới chỉ là con số báo cáo trên sổ sách từ phía các ngân hàng thương mại, cho những khoản vay bất động sản hiển nhiên, chứ chưa tính tới một bộ phận tín dụng biến dạng dưới các hình thức khác. Hơn nữa, ngoài nguồn tín dụng ngân hàng, thị trường bất động sản còn thu hút thêm một lượng vốn không nhỏ từ kiều hối (tổng kiều hối ước tính khoảng trên 8 tỷ USD/năm), vốn tiết kiệm và tự có trong dân, và các nguồn vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp khác dưới hình thức này hay hình thức khác. Vì thế, không lấy làm lạ khi giá bất động sản đã tăng mạnh trong mấy năm qua kéo dài đến tận gần đây.
Nhưng câu hỏi liên quan và khó trả lời hơn là tại sao bất chấp những kinh nghiệm đau đớn nhãn tiền về chuyện hình thành và xì hơi bong bóng bất động sản kéo theo bao hệ lụy cho hệ thống ngân hàng từ trước cho đến gần đây mà các ngân hàng ngày nay vẫn không ngán ngại sẵn sàng dốc thêm hầu bao cho bất động sản?
Tại sao ngân hàng sẵn sàng rót vốn cho bất động sản?
Câu trả lời nằm ở lợi nhuận kỳ vọng khi đầu tư vào bất động sản. Có một số yếu tố quyết định hành vi cho vay của ngân hàng, trong đó có bất động sản, đã được nhiều học giả chỉ ra trong các mô hình lý thuyết và nghiên cứu thực chứng của họ. Trong bài này, chúng ta sẽ lựa chọn áp dụng một số trong những yếu tố đó để lý giải mối quan hệ giữa bất động sản và hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Mức tập trung cho vay vào thị trường bất động sản của các ngân hàng (tính theo tỷ lệ giữa khối lượng cho vay bất động sản với tổng vốn chủ sở hữu) sẽ càng lớn khi: (i) lợi nhuận kỳ vọng thu được từ cho vay bất động sản càng vượt trội so với chi phí cơ hội của nguồn vốn cho vay và khi lợi nhuận thu được từ các hoạt động cho vay khác không lớn và khác biệt nhiều một cách tương đối; (ii) giá trị kỳ vọng của các tài sản trong danh mục tài sản của ngân hàng tăng lên.
Ngược lại, các ngân hàng sẽ giảm mức độ tập trung này khi: (iii) xác suất kỳ vọng xảy ra mất khả năng thanh toán tăng lên; (iv) sự tương quan (xét về lợi nhuận) giữa bất động sản với các hạng mục khác trong danh mục tài sản của ngân hàng tăng lên; và (v) yêu cầu mức vốn tối thiểu tăng lên.
Dựa vào những yếu tố quyết định sự "dấn thân" của một ngân hàng nào đó vào bất động sản như nói ở trên, có thể rút ra 2 nhận định sau.
Nhận định thứ nhất, ngân hàng coi cho vay bất động sản là hấp dẫn khi họ kỳ vọng và thực tế thường là thu được lãi (gồm lãi cho vay và các loại phí) lớn hơn lãi cho vay doanh nghiệp (ví dụ, tờ SGTT cho biết các lãi suất liên quan đến bất động sản luôn cao hơn lãi suất cho vay bình thường từ 4 đến 7 điểm phần trăm). Cho vay bất động sản càng được khuyến khích khi ngân hàng được phép mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động đồng thời theo đuổi mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận.
Nhận định thứ hai, giá bất động sản tăng cũng trực tiếp khuyến khích hành vi cho vay vào thị trường này theo 2 cách.
Cách thứ nhất, tài sản bất động sản nắm giữ của ngân hàng tăng lên về giá trị sẽ làm tăng phần giá trị theo thị giá (economic value) của phần vốn chủ sở hữu của ngân hàng, từ đó làm cho ngân hàng sẵn lòng cho vay bất động sản nhiều hơn.
Cách thứ hai, khi giá trị tài sản thế chấp cho các khoản vay bất động sản tăng lên thì rủi ro thua lỗ cho danh mục các khoản vay hiện hành của ngân hàng sẽ giảm đi, làm cho ngân hàng có thêm khả năng tăng cho vay mà không sợ làm tăng xác suất mất khả năng thanh toán. Tăng giá bất động sản còn tác động đến việc áp đặt xác suất mất vốn thấp hơn lên các khoản cho vay bất động sản mới (các ngân hàng áp đặt một cách chủ quan xác suất này).
Cần thừa nhận rằng các yếu tố ảnh hưởng đến và cơ chế tác động lên quyết định cho vay bất động sản như nói trên của ngân hàng không phải là mới mẻ và khó nhận biết, nhưng rõ ràng là các ngân hàng trên thực tế đã thường không đánh giá đúng được mức độ rủi ro khi cho vay bất động sản. Bởi vậy, câu hỏi quan trọng đặt ra là tại sao ngân hàng lại ước tính không đúng mức (đánh giá thấp) các rủi ro của việc tập trung cho vay quá mức vào bất động sản? Có 2 cách giải thích phù hợp: (i) các ngân hàng đánh giá thấp đi rủi ro vì họ xem nhẹ khả năng xảy ra các cơn sốc; (ii) các ngân hàng phớt lờ rủi ro vì có những động cơ khuyến khích họ làm càn.
(i) Xem nhẹ khả năng xảy ra các cơn sốc
Khả năng ước tính được xác suất cho một cú sốc - ví dụ sự tụt dốc giá bất động sản - phụ thuộc vào 2 yếu tố quan trọng là tần suất xảy ra các cú sốc và mức độ cạnh tranh trên thị trường.
Về tần suất xảy ra các cú sốc, nếu một cú sốc nào đó xảy ra với tần suất cao thì đó thường không phải là nguồn gây ra rủi ro mất thanh khoản cho ngân hàng vì ngân hàng đó có thể ước tính được mức độ rủi ro này với một mức độ đáng tin cậy lớn, và từ đó có những biện pháp đối phó hữu hiệu. Ví dụ, rủi ro mất khả năng chi trả ở các khoản vay thẻ tín dụng và vay mua ô tô là những rủi ro thường xảy ra và vì thế ngân hàng có đủ kiến thức, kinh nghiệm và động cơ để tính đủ giá và phí cho những khoản vay này cũng như trích đủ dự phòng để giảm thiểu tác động khi xảy ra thiệt hại.
Ngược lại, câu chuyện sẽ khác đi nếu những cú sốc xảy ra không thường xuyên với xác suất không chắc chắn. Khi thời gian trôi đi, người ta có xu hướng đánh giá thấp đi xác suất xảy ra các cú sốc có tần suất thấp, ngay cả khi xác suất đó không đổi hoặc thậm chí đã tăng lên. Trong trường hợp như vậy, ngân hàng sẽ có xu hướng cho vay nhiều hơn so với trạng thái vốn của nó cho phép, và cả hệ thống ngân hàng trở nên dễ bị tổn thương hơn bởi một thảm họa nào đó. Đây là cả một quá trình âm thầm và có thể đẩy cả hệ thống ngân hàng vào thảm họa mà không một ai nhận ra mình đã tăng mức phơi nhiễm với rủi ro.
Tính dễ mắc phải căn bệnh này thường tự tăng tiến bởi một số yếu tố mang tính thể chế. Ví dụ, hệ thống kế toán quản trị có thể vô tình khuyến khích các hoạt động thuộc nhóm có các cơn sốc tần suất thấp. Mặc dù các thông lệ kế toán chuẩn mực phát huy tác dụng tốt trong việc giám sát, định giá và trích lập dự phòng cho các cơn sốc thuộc nhóm có tần suất cao, chúng lại không có mấy tác dụng trong việc kiểm soát mức phơi nhiễm đối với các cơn sốc thuộc nhóm có tần suất thấp, vì chúng xảy ra ít đến độ chúng hiếm khi được phản ánh trong giai đoạn báo cáo.
Cụ thể hơn, do trong những năm báo cáo trước đó không có/bao gồm kết quả xấu do một cơn sốc (thuộc nhóm có tần suất thấp) xảy ra được ghi nhận dưới dạng các dữ liệu kế toán nên dẫn đến xu hướng là phí bảo hiểm mất khả năng thanh toán và quỹ dự phòng ngày càng bị tính thấp đi. Hơn nữa, trong trường hợp không có trích dự phòng thích đáng cho những khoản thiệt hại tiềm năng, các hành động thuộc nhóm có cơn sốc tần suất thấp sẽ tỏ ra có tính sinh lợi cao.
Ảo giác về tính sinh lợi cao này lại tạo ra thêm những vấn đề khác. Nếu lương và thưởng của nhân viên ngân hàng được tính dựa trên lợi nhuận báo cáo ngắn hạn (không được điều chỉnh theo quỹ dự phòng cho các cơn sốc), thì nhân viên đó - là người ở vị trí thuận lợi nhất đánh giá được các hiểm họa - sẽ có lợi, và do đó, phớt lờ các hiểm họa này.
Về mức độ cạnh tranh, trong các thị trường cạnh tranh cao độ, đối với những ngân hàng không bị mắc phải căn bệnh xem nhẹ khả năng xảy ra sốc, sẽ rất khó cho họ tính đúng và đủ phí và lãi suất cho vay các khoản vay dựa trên xác suất xảy ra sốc trong khi các ngân hàng khác (mắc căn bệnh này) định giá và phí dựa trên nhận thức (sai lầm) rằng xác suất xảy ra sốc là bằng 0. Thêm nữa, trong thị trường cạnh tranh, khi có một ngân hàng nào đó đang hưởng mức lợi nhuận lớn hơn trung bình (nhờ vào việc không tính dự phòng cho sốc trong tương lai), các ngân hàng khác sẽ bị hấp dẫn và nhảy vào với hành động tương tự, làm suy giảm mức lợi nhuận mà ngân hàng kia được hưởng. Điều này buộc ngân hàng kia phải phản ứng bằng cách tăng cường các khoản cho vay rủi ro. Bởi thế, có thể nói sự cạnh tranh làm cho ngân hàng ngày càng dễ tổn thương khi có một cơn sốc lớn, ví dụ như tụt dốc giá bất động sản, xảy ra.
Một khi cơn sốc xảy ra thì căn bệnh xem nhẹ khả năng xảy ra sốc lại dễ dàng biến thành căn bệnh ngược lại, phóng đại khả năng xảy ra sốc theo nguyên lý "con chim bị tên nhìn thấy cành cong cũng sợ". Lúc này các ngân hàng sẽ hạn chế cho vay và tăng phí bảo hiểm mất khả năng thanh toán trong bối cảnh (họ tin rằng) xác suất xảy ra sốc đã tăng lên.
Sự sụt giảm đột ngột nguồn tín dụng cho thị trường bất động sản sẽ làm tăng thêm áp lực giảm giá bất động sản. Sụt giảm tín dụng cũng xảy ra tương tự trên các thị trường khác khi ngân hàng cố gắng tăng dự trữ và vốn để đối phó với rủi ro mất thanh khoản tăng lên.
Cơ quan quản lý và giám sát hệ thống ngân hàng, là NHNN trong trường hợp này, có thể cũng đã bị nhiễm căn bệnh xem nhẹ khả năng xảy ra sốc; do đó, cũng hoàn toàn có thể đã bị nhiễm căn bệnh phóng đại khả năng xảy ra sốc. Bằng chứng là ngay cả trong báo cáo hoạt động cuối năm 2010 (1), NHNN vẫn cho rằng tốc độ tăng trưởng dư nợ bất động sản 23,5% so với năm 2009 "là điều có thể chấp nhận được", và rằng chất lượng tín dụng đối với lĩnh vực này "cũng được đảm bảo". Nhưng thông điệp mà NHNN phát ra từ đầu năm nay cho đến bây giờ dường như ngày càng ở thái cực ngược lại. Trên hết, điều đáng nói ở đây là trong bối cảnh (họ tin rằng) xác suất xảy ra sốc đã tăng NHNN có thể sẽ tăng cường bảo vệ hệ thống ngân hàng bằng cách kiên quyết áp dụng tỷ lệ vốn tối thiểu cao hơn và tỷ lệ trích quỹ dự phòng cao hơn cho những khoản thiệt hại tiềm năng (và trên thực tế điều này đã xảy ra với việc NHNN áp dụng tỷ lệ trích lập dự phòng lên tới 250% cho bất động sản thay vì 50% cho vay tiêu dùng). Điều này làm khó thêm thị trường bất động sản nói riêng và các ngành kinh tế khác nói chung, tương tự như phân tích ở đoạn trên.
(ii) Những động cơ khuyến khích sự làm càn
Các dự án bất động sản thường có tỷ lệ đòn bẩy tài chính rất cao. Các chủ dự án thông thường chỉ bắt đầu dự án với một số vốn tối thiểu (ví dụ theo báo chí Việt Nam thì ở không ít trường hợp con số này chỉ là 10% giá trị dự án) nhằm đẩy rủi ro càng nhiều càng tốt sang phía chủ nợ. Các ngân hàng nói chung cố gắng tự vệ bằng cách yêu cầu duy trì tỷ lệ vốn vay/giá trị bất động sản ở mức thấp, bảo lãnh, điều khoản chiếm giữ trong cam kết cho vay dài hạn, và các quy ước hợp đồng cho vay chặt chẽ.
Khi bối cảnh cho căn bệnh xem nhẹ khả năng xảy ra sốc nói ở trên xảy ra, ngân hàng cho rằng họ có thể chấp nhận tỷ lệ vốn vay/giá trị bất động sản cao hơn, các cam kết hay bảo lãnh yếu hơn, và các quy ước hợp đồng cho vay lỏng lẻo hơn mà không làm tăng rủi ro mất vốn. Hơn nữa, sự cạnh tranh gay gắt từ những ngân hàng mắc cùng căn bệnh này có thể buộc các ngân hàng có quản trị rủi ro tốt hoặc phải chấp nhận những chuẩn mực cho vay thấp hơn hoặc phải rút khỏi thị trường. Trong hoàn cảnh như vậy, rõ ràng lợi thế nghiêng về phía các chủ dự án khi họ có thể trục lợi từ các ngân hàng chủ nợ bằng cách lao vào các dự án có mức độ rủi ro cao hơn.
Các ngân hàng cũng có những động cơ để làm càn. Một số ngân hàng có thể phớt lờ rủi ro của việc xảy ra một thảm họa vì họ tin rằng họ sẽ được bảo vệ trong trường hợp xảy ra thảm họa (ví dụ bằng quỹ bảo hiểm tiền gửi, bằng cam kết của NHNN không để hệ thống ngân hàng đổ vỡ v.v...)
Sự bảo vệ ngầm định và công khai như vậy làm nảy sinh rủi ro đạo đức cho cả phía người gửi tiền và phía ngân hàng. Người gửi tiền thì chẳng quan tâm đến việc tìm hiểu và gây áp lực đòi hỏi các hoạt động của ngân hàng phải theo hướng an toàn hơn. Kết cục là giới quản lý ngân hàng tìm mọi cách để tăng lợi tức kỳ vọng cho cổ đông của mình thông qua, ví dụ, thay thế các tài sản an toàn hơn bằng các tài sản rủi ro hơn, chẳng hạn như bất động sản thương mại. Kể cả khi giá bất động sản tụt giảm làm tăng khả năng mất vốn, ngân hàng vẫn muốn tiếp tục mạo hiểm hơn vì lợi nhuận (nếu có) thì họ (cổ đông ngân hàng) tiếp tục được hưởng còn thiệt hại (nếu có) thì chủ nợ của họ - quỹ bảo hiểm tiền gửi và người nộp thuế - phải chịu.
Thậm chí trong trường hợp con nợ, ví dụ chủ dự án bất động sản, không còn khả năng trả lãi vay thì ngân hàng vẫn tiếp tục muốn cho vay tiếp để con nợ có tiền trả lãi vay và ngân hàng thì có thể trì hoãn việc phải ghi giảm giá trị khoản vay hiện tại trên sổ sách, một thủ thuật kế toán theo đó thì những tài sản có thị giá lớn hơn giá trị sổ sách sẽ được bán đi, còn những tài sản có thị giá thấp hơn giá trị sổ sách sẽ được giữ lại.
Động cơ khuyến khích sự làm càn còn được tìm thấy ở phía các cơ quan hữu trách (ví dụ, ngân hàng trung ương). Khi giá bất động sản tụt dốc kéo theo nguy cơ đổ vỡ của hệ thống ngân hàng, thì cái giá phải trả cực lớn từ hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Ngân hàng trung ương, thay vì để cho ngân hàng phá sản dưới áp lực của thị trường, lại tìm mọi cách để che giấu và trì hoãn việc này. Lý do, phần vì để giải quyết đống đổ vỡ cần phải có nguồn lực vật chất và nhân sự rất lớn mà đôi khi họ không thể kham nổi, phần vì không muốn người ta đặt dấu hỏi vào khả năng quản lý của mình khi mọi chuyện vỡ ra, phần khác thì sợ rằng khi mình thú nhận khả năng đổ vỡ này sẽ làm xói mòn lòng tin công luận và châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính. Sự trì hoãn và che giấu còn do họ hy vọng (mặc dù rất mong manh) vào sự hồi phục của giá bất động sản về mức trước khi tụt dốc sau một thời gian nữa. Trên thực tế, các cơ quan hữu trách thường quyết định theo kiểu "để xem sao" và đánh cược vào khả năng giá bất động sản sẽ đảo ngược trong thời gian tới.
Bài học chính sách
Tóm lại, các bong bóng bất động sản ở Việt Nam nói riêng và ở trên thế giới nói chung thường bắt nguồn từ sự lạc quan thái quá và sự tiếp tay của hệ thống ngân hàng. Phạm vi và độ dài cơn sốt giá bất động sản càng tăng chừng nào ngân hàng còn tiếp tục rót vốn vào thị trường này. Đối với ngân hàng, sự sẵn sàng rót vốn vào bất động sản sẽ còn tiếp tục chừng nào họ (ngân hàng thương mại) và cơ quan hữu trách (ngân hàng trung ương) còn mắc căn bệnh xem nhẹ khả năng xảy ra sốc.
Rủi ro đạo đức đóng một vai trò then chốt, đặc biệt khi cổ đông ngân hàng có ít thứ để bị mất (và luôn ở thế "mặt ngửa thì tớ thắng, mặt xấp thì ai đó phải thua") còn người gửi tiền thì tin tưởng rằng họ sẽ được bảo vệ (bằng bảo hiểm tiền gửi). Những động cơ khuyến khích sự làm càn này sẽ chất lên vai cơ quan hữu trách một gánh nặng lớn - thường quá sức của họ. Khi trạng thái vốn của các ngân hàng thương mại bị suy yếu đi, cơ quan hữu trách thường chọn cách "để xem sao", hy vọng vào sự hồi phục màu nhiệm của giá bất động sản.
Giải pháp này có thể gây ra nhiều thiệt hại lớn. Nếu các ngân hàng bị suy yếu về vốn vẫn được phép hoạt động thì họ rất có thể chơi trò tống tiền dân nộp thuế như nêu ở trên, để rồi thiệt hại nếu có sẽ còn lớn hơn. Nếu họ không chơi trò này, họ cũng khó có thể làm ra đủ lợi nhuận để hồi phục vốn của mình trong một thời gian ấn định bởi còn một mớ lớn nợ xấu bất động sản. Thay vào đó, họ sẽ bán tài sản, thu hẹp cho vay mọi khu vực, ngành kinh tế và từ chối gia hạn các khoản vay hiện thời đến hạn thanh toán.
Trong nền kinh tế mà hệ thống ngân hàng đóng vai trò nguồn cung cấp tài chính chủ yếu như ở Việt Nam, điều này có thể gây ra tác động lớn đến đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, như cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã cho thấy, một nền kinh tế với một hệ thống ngân hàng yếu kém về vốn sẽ dễ bị tổn thương bởi các cú sốc ngoại lai như khủng hoảng ngoại hối, có thể hủy hoại nền kinh tế thực. Bởi vậy tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng và mối quan hệ của nó với thị trường bất động sản không những chỉ làm hình thành bong bóng bất động sản mà còn có thể có tác động lớn đến sự ổn định chung của cả nền kinh tế.
Nhận biết được cơ chế tương tác qua lại giữa thị trường bất động sản và hệ thống ngân hàng trong việc hình thành và xì hơi bong bóng bất động sản hy vọng sẽ là cơ sở để các nhà quản lý ở các ngân hàng thương mại và NHNN có những chính sách và hành vi hoạt động hợp lý hơn, hạn chế được các rủi ro phát sinh từ sự trồi sụt của thị trường bất động sản lây lan ra hệ thống ngân hàng nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung.
Bong bóng BĐS xì hơi, ngân hàng nào sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất?
Sự tăng lên của lãi suất cho vay bất động sản và sự sụt giảm của giá bất động sản là 2 trong số các yếu tố chính làm tăng tỷ lệ con nợ không trả (được) vốn vay bất động sản. Lãi suất cho vay cao làm giảm khả năng chi trả vì chi phí vay đã tăng cao hơn. Điều này có thể xảy ra khi nền kinh tế đã phát triển quá nóng với biểu hiện là lạm phát cao, và chính sách tiền tệ vì thế được thắt chặt như một biện pháp đối phó.
Với giá bất động sản, nếu nó sụt giảm đến mức nào đó thì con nợ sẽ chọn không trả nợ vay vì lúc đó giá trị của khoản vay trở nên lớn hơn giá trị bất động sản, kể cả đã tính vào đó phí giao dịch và chữ tín. Đặc biệt với các khoản vay thế chấp, việc có hay không trả nợ sẽ phụ thuộc vào biến động về giá trị của tài sản thế chấp. Giá nhà suy yếu, ví dụ, sẽ châm ngòi cho việc không trả nợ vốn vay có nhà ở làm thế chấp.
Ở Việt Nam, lãi suất cho vay thương mại cao nhất đã tăng lên 12%/năm vào cuối năm 2009 từ mức khoảng 10%/năm đầu năm 2009 và sau đó nhảy vọt lên 20%/năm vào tháng 3 năm 2010 và nằm ở mức cao hơn thế nữa cho đến thời gian này (lưu ý rằng các con số ở đây chỉ mang tính tương đối vì có nhiều báo cáo khác nhau cho các con số khác nhau). Đáng chú ý là lãi suất cao như vậy nhưng nó chưa gây ra sự suy thoái đáng kể nào cho thị trường bất động sản cho đến tận gần đây khi trùng hợp với lãi suất cao là sự đi xuống của giá bất động sản, cùng với yêu cầu của NHNN buộc các ngân hàng thương mại giảm tỷ trọng dư nợ tín dụng bất động sản. Các yếu tố này đã đẩy thị trường bất động sản vào trạng thái khó khăn mà nhiều người còn kỳ vọng đó mới chỉ là sự khởi đầu cho một cuộc lao dốc sắp tới.
Khi giá bất động sản sụt giảm, hệ quả tất yếu là tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản sẽ tăng vọt. Nhưng điều đáng nói ở đây là tỷ lệ này lại rất khác nhau giữa các ngân hàng thương mại, mặc dù chúng cùng nằm trong một hệ thống. Nói cách khác, có sự khác biệt rất rõ ràng về tính dễ bị tổn thương của các ngân hàng trên thị trường tín dụng bất động sản.
Thông thường, người ta cho rằng những ngân hàng có tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng vốn huy động cao, đồng thời có tỷ trọng lớn dư nợ cho vay bất động sản trong tổng dư nợ sẽ là những ngân hàng có khả năng dễ bị tổn thương nhất trong bối cảnh thị trường bất động sản lao dốc, bởi lúc đó gánh nặng nợ bất động sản xấu sẽ tăng vọt. Người ta cũng tin rằng các ngân hàng nhỏ thì sẽ dễ bị tổn thương hơn so với những ngân hàng lớn vì ngân hàng nhỏ thường là yếu về vốn nên khó xoay sở khi phải đối mặt với rủi ro thị trường.
Thế nhưng, một số nghiên cứu thực chứng cho thấy những kết quả chỉ một phần ủng hộ các nhận định trên, như nêu dưới đây:
- Mặc dù các ngân hàng lớn thường có tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản thấp hơn nhưng xác suất phải đối mặt với nhiều vấn đề khi nền kinh tế đi xuống sẽ cao hơn ở những ngân hàng này, vì tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản sẽ tăng lên nhanh hơn ở các ngân hàng này so với các ngân hàng nhỏ hơn.
- Những ngân hàng với chênh lệch lãi suất huy động và cho vay cao thường là những ngân hàng có những khoản cho vay bất động sản nhiều rủi ro hơn đồng thời có tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản cao hơn. Mặc dù có tính sinh lời cao, các ngân hàng này lại là những ngân hàng dễ bị tổn thương bởi các cú sốc gây ra do lãi suất tăng kéo theo sự gia tăng tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản.
- Những ngân hàng kém hiệu quả hơn (thể hiện qua tỷ trọng phí trên doanh thu lớn) sẽ dễ có tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản tăng vọt khi nền kinh tế xấu đi, mặc dù họ không nhất thiết có tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản cao hơn. Điều này cho thấy tầm quan trọng của chất lượng quản lý và việc cải thiện nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Những ngân hàng có tỷ trọng dư nợ cho vay bất động sản trong tổng dư nợ cao (có thể là do họ thường có một tỷ lệ thấp hơn về nợ xấu bất động sản) không phải là những ngân hàng dễ bị tổn thương hơn. Điều này thoạt nghe có vẻ nghịch lý nhưng lý do có thể là vì họ "chuyên" cho vay trong lĩnh vực bất động sản nhờ khả năng có thể cho vay các khoản vay tốt hơn trong thị trường bất động sản và, do đó, có tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản thấp hơn. Nếu họ cũng quản lý tốt được các rủi ro đi kèm thì họ cũng hoàn toàn có thể ít bị tổn thương hơn những ngân hàng "không chuyên" trong lĩnh vực cho vay bất động sản.
- Những ngân hàng mở rộng tăng trưởng tín dụng nhanh hơn thường có tỷ lệ không trả (được) vốn vay bất động sản cao hơn.
Tóm lại, các kết quả nghiên cứu thực chứng nói trên cho thấy có sự khác biệt lớn giữa các ngân hàng về khả năng chịu đựng các cú sốc mang lại từ các biến động vĩ mô trong đó có tăng lãi suất, tụt giảm giá bất động sản, và giảm tăng trưởng kinh tế v.v... là những yếu tố tác động tiêu cực đến thị trường bất động sản. Những ngân hàng dễ bị tổn thương nhất là những ngân hàng có tốc độ tăng trưởng cho vay cao, có hiệu quả hoạt động thấp, và hoạt động cho vay bất động sản một cách tích cực.
Trong khi kết luận rằng các ngân hàng có hiệu quả hoạt động kém thường có xác suất đối mặt với khó khăn cao hơn không phải là một kết luận gây ngạc nhiên, ở đây chúng ta xác định được thêm ít nhất một đặc tính thường bị bỏ qua nữa, cụ thể là, tốc độ tăng trưởng cho vay cao là dấu hiệu của sự dễ bị tổn thương khi có cú sốc vĩ mô. Ngoài ra, các kết luận trên còn chỉ ra một sai lầm về chính sách ở Việt Nam khi NHNN đang đặt con mắt cảnh giác vào những ngân hàng có tỷ trọng dư nợ cho vay bất động sản lớn và đang bắt những ngân hàng thuộc nhóm này phải hạ thấp tỷ trọng này về mức chung của cả hệ thống ngân hàng, bất chấp thực tế có thể họ là những "chuyên gia" bất động sản.
Ngoài ra, các kết luận khác cũng có thể mang lại những hàm ý chính sách cho NHNN trong công tác theo dõi, giám sát, và thanh tra các hoạt động ngân hàng thương mại nhằm giảm rủi ro đổ vỡ hệ thống xuất phát từ các ngân hàng dễ bị tổn thương nhất từ các cú sốc vĩ mô.
_____________________________
(1) http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/bat-dong-san/2010/12/3ba249fb/
Monday, 7 November 2011
Nên đối xử như thế nào với tỷ giá USD? (VEF)
(VEF.VN) - Đến hẹn lại lên, câu chuyện tỷ giá càng về cuối năm lại càng nóng bỏng, và càng nóng bỏng hơn khi: một mặt, trước đây một thời gian Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tuyên bố tỷ giá sẽ chỉ tăng dưới 1% cho đến hết năm nay; mặt khác, cho đến đầu tháng 11 này, "quota" 1% này đã dùng gần hết.
Câu hỏi lớn nhất mà dư luận đang quan tâm về chuyện tỷ giá là liệu NHNN có giữ được cái mục tiêu này hay buộc phải "điều chỉnh" hơn thế nữa.
Đứng ở góc độ NHNN nói riêng, Chính phủ nói chung, có một số lý do quan trọng để đưa tỷ giá vào vòng kiểm soát chặt chẽ.
Tỷ giá với lạm phát
Trước hết, nếu tỷ giá biến động mạnh (thường đồng nghĩa với phá giá nội tệ, hay được "điều chỉnh" mạnh ở Việt Nam), nó sẽ châm ngòi hoặc làm gia tăng vòng xoáy lạm phát, thông qua kênh nhập khẩu, cũng như vòng xoáy chuyển đổi danh mục tài sản từ/bằng VND ra đôla.
Mặc dù, về lý thuyết, phá giá nội tệ cũng cải thiện tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, nhưng xem ra xuất khẩu của Việt Nam cho đến nay có vẻ không bị ảnh hưởng nhiều lắm bởi biến động tỷ giá VND/USD. Trong nhiều trường hợp, tác động của những yếu tố khác mới là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, ví dụ như sự gia tăng giá cả hàng hóa trên thế giới, thỏa thuận thương mại song phương và đa phương, các biện pháp hỗ trợ/trợ cấp xuất khẩu của Chính phủ, và thậm chí là sự chủ động bán hàng phá giá của một số doanh nghiệp và ngành nghề ở Việt Nam để giành giật thị trường và/hoặc giải phóng năng lực sản xuất dư thừa trong nước v.v...
Vì thế, nếu xét đến tác động vĩ mô như trên thì NHNN thường mong muốn xác lập tỷ giá VND/USD ở mức ổn định nhất có thể (về mặt danh nghĩa) hoặc chỉ biến động trong một biên độ hạn hẹp.
Tuy nhiên, cần phải hiểu sâu hơn một chút về quan hệ nhân quả giữa lạm phát và tỷ giá. Theo cách hiểu trên thì tỷ giá gây ra lạm phát và vì thể để chống lạm phát cần phải ổn định tỷ giá. Nhưng trên thực tế ở Việt Nam, đa phần áp lực đẩy tỷ giá tăng (nội tệ mất giá) là xuất phát từ lạm phát. Và lạm phát thì lại thường là kết quả trực tiếp của chính sách tiền tệ nới lỏng gây ra. Vì thế, có thể nói hành động ổn định tỷ giá để kiềm chế lạm phát như vậy về bản chất là vừa không trị đúng nguồn gốc căn bệnh lạm phát là do cung tiền tăng, lại vừa tốn kém một cách vô ích vì phải dùng quỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp bình ổn tỷ giá mà rốt cuộc vẫn phải phá giá. Việc này cũng tương tự như bệnh nhân huyết áp cao tiếp tục ăn nhiều mỡ, muối trong khi lại bỏ tiền ra để mua và dùng thuốc để hạ huyết áp.
Tỷ giá với đầu cơ tiền tệ và ổn định môi trường kinh doanh
Lý do quan trọng thứ hai để NHNN ưa chuộng một chế độ tỷ giá tương đối ổn định là nhằm bảo đảm một môi trường kinh doanh tương đối ổn định để doanh nghiệp có thể tính toán được bài toán đầu tư và lợi nhuận để yên tâm đầu tư mà không sợ phải đối mặt với những rủi ro bất trắc từ biến động tỷ giá. Tuy nhiên, thiện ý này cũng chính là con dao 2 lưỡi và là một trong những nguồn gây bất ổn cho chính sách tỷ giá của NHNN hiện nay.
Chỉ còn một giải pháp xem ra ít rủi ro hơn là NHNN hoặc không tuyên bố gì/rõ về chủ trương trong chính sách ngoại hối của mình (ảnh minh họa - Lao động)
Với tuyên bố giữ tỷ giá không tăng quá 1% trong năm nay của NHNN, các doanh nghiệp đương nhiên được ngầm khuyến khích đi vay bằng ngoại tệ để sản xuất kinh doanh với lợi ích nhãn tiền rõ ràng là lãi suất đi vay ngoại tệ thấp hơn hẳn rất nhiều so với VND, trong khi đáng chú ý là nhiều trong số họ có doanh thu bằng VND. Tinh trạng bất đối xứng đồng tiền (currency mismatch) như vậy sẽ gây thêm áp lực rất lớn cho NHNN trong việc cố gắng thực hiện mục tiêu ổn định tỷ giá khi thời hạn trả nợ các khoản vay ngoại tệ đang đến dồn dập vào thời điểm cuối năm.
Ngoài ra, thiện ý trên cũng nhằm mục đích sâu xa là triệt tiêu động cơ đầu cơ tiền tệ, với quan niệm rằng khi đã tuyên bố (và trên thực tế có cố gắng thực hiện) ổn định tỷ giá như vậy thì giới đầu cơ chẳng có lý do gì để kỳ vọng tỷ giá sẽ tăng vọt nay may hòng kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, vì đây thường là cuộc chiến không cân sức giữa một bên là NHNN và bên kia là thị trường, với cán cân thường nghiêng về phía thị trường, với cả một bản ghi "thành tích" đầy đủ trong quá khứ nên rốt cuộc ý đồ này cũng trở nên phản tác dụng khi chính nó (sự kìm nén tỷ giá) lại trở thành ngòi nổ cho những đợt phá giá mạnh khi NHNN không còn cách nào khác.
Tỷ giá với gánh nặng trả nợ nước ngoài
Một lý do rất quan trọng khác góp mặt vào chủ trương ổn định tỷ giá VND/USD là chuyện liên quan đến trả nợ nước ngoài. Có thể nói cho đến nay chắc chắn gần như 100% số người được hỏi sẽ cho rằng để tỷ giá tăng mạnh (tức phá giá mạnh VND) sẽ làm cho gánh nặng nợ quốc gia, nợ của doanh nghiệp bằng ngoại tệ tăng lên. Tuy nhiên, rất tiếc đây lại là một nhận định chưa đầy đủ.
Trên bề mặt thì đúng là nếu VND bị phá giá ví dụ 5%, gánh nặng nợ bằng ngoại tệ nhưng quy ra VND sẽ tăng thêm đúng 5%. Trước đây, Chính phủ và doanh nghiệp chỉ cần huy động 20 triệu VND để mua USD và trả cho mỗi 100 USD tiền vay nợ trong và ngoài nước. Nếu phá giá VND 5% thì con số VND cần để mua được mỗi 100 USD sẽ là 21 triệu. Đúng là Chính phủ và doanh nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng từ việc phá giá này bằng cách thu hẹp tương ứng lợi nhuận ròng của mình tính bằng VND (đối với doanh nghiệp) hoặc tăng thêm thâm hụt ngân sách (đối với Chính phủ).
Nhưng đây mới chỉ là một phần (nổi) của câu chuyện. Nếu giả sử VND bị áp lực phải phá giá 5% để lập lại cân bằng thương mại, nhưng NHNN kiên định không phá giá với nỗi e ngại nêu trên. Để kiên định làm được việc này, NHNN phải hoặc là dùng các biện pháp hành chính để duy trì mức tỷ giá danh nghĩa hiện thời (ví dụ bằng cách theo dõi, thanh tra và phạt các tổ chức tài chính tín dụng mua bán ngoại tệ vượt quá biên độ cho phép), và/hoặc là tung USD trong quỹ dự trữ ngoại hối của mình ra thị trường để ổn định tỷ giá hiện hành. Cách thứ nhất thì NHNN đã và đang làm, nhưng tất nhiên chỉ hữu hiệu được một thời gian rồi cũng phải theo cách thứ hai, như thực tế đã cho thấy.
Tóm lại, rốt cuộc, hao hụt quỹ dự trữ ngoại hối là cái giá trực tiếp phải trả để ổn định tỷ giá, và sâu xa hơn nữa là để tránh cho gánh nặng nợ nần bằng ngoại tệ (tính theo VND) của các doanh nghiệp và Chính phủ không tăng lên. Suy ra tiếp điều gì nữa? Doanh nghiệp thì có lợi vì tự nhiên được "bù lỗ", "bao cấp" một cách gián tiếp từ nguồn lực quốc gia. Đối với cả quốc gia, vì gánh nặng nợ của Chính phủ được đổ lên vai NHNN nên rút cục tiền chỉ chui từ túi nọ sang túi kia (ví dụ, từ NHNN sang Bộ Tài chính). Đến đây, ta có thể thấy rõ ai sẽ kêu gọi không phá giá và NHNN có nên phá giá không khi cần thiết phải làm thế.
Điều đáng lo ngại hơn là hành động can thiệp ổn định tỷ giá của NHNN không thể ở quy mô lớn và kéo dài được vì quỹ dự trữ ngoại hối nhỏ nhoi của mình. Cuối cùng thì NHNN cũng phải chấp nhận phá giá VND khi áp lực phá giá tiếp tục tăng lên. Càng o ép, càng "kiên định" với ổn định tỷ giá lâu thì mức phá giá sau này càng lớn, như thực tế minh họa. Và lúc đó thì cả doanh nghiệp và Chính phủ đều không tránh khỏi phải đối mặt với gánh nặng nợ nần lớn hơn quy ra theo VND, và cũng tức là cái giá phải trả lớn hơn từ dự trữ ngoại hối của NHNN.
Như vậy, có thể thấy sự chần chừ, e ngại phá giá VND, "điều chỉnh" VND thường xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn về vai trò của tỷ giá trong việc kiềm chế lạm phát, về mối quan hệ giữa trả nợ nước ngoài và phá giá nội tệ, cũng như về vai trò của tỷ giá với ổn định môi trường kinh doanh, triệt tiêu động cơ đầu cơ tiền tệ v.v...
Lập trường trong chính sách tỷ giá
Với nhiều lý do, nhưng đa phần không chính đáng như phân tích ở trên, có thể thấy sẽ là điều nguy hại nếu NHNN một mặt tiếp tục thi hành chính sách tiền tệ nới lỏng để hậu thuẫn tăng trưởng, một mặt tìm mọi cách để "ổn định" tỷ giá.
Nhưng giả sử nếu NHNN buộc phải tiếp tục thi hành chính sách tiền tệ nới lỏng (không nhiều thì ít) vì một áp lực nào đó. Kết cục đương nhiên là áp lực lạm phát gia tăng và áp lực phá giá nội tệ (tăng tỷ giá) cũng gia tăng. Khi đó, nếu NHNN khiên cưỡng và cố gắng một cách thái quá không thực hiện phá giá khi tình hình đòi hỏi phải phá giá thì sự ổn định (nếu có) và sự chống đỡ của NHNN trước áp lực phá giá của thị trường cũng chỉ mang tính ngắn hạn hay chỉ thành công trong ngắn hạn, để rồi khi buộc phải phá giá, hậu quả của nó lên lạm phát sẽ ở mức trầm trọng hơn do còn có sự góp mặt của tâm lý và kỳ vọng phá giá tiếp tục do NHNN đã rơi vào thế "sức cùng lực kiệt" và sẽ dễ dàng/tiếp tục bị tấn công bởi giới đầu cơ tiền tệ.
Vậy NHNN cần có sách lược "PR" với công chúng về lập trường trong chính sách ngoại hối của mình như thế nào cho thích hợp nhất trong hoàn cảnh buộc phải tăng cung tiền (kể cả như hiện nay, mặc dù chính sách tiền tệ được nhấn mạnh là "chặt chẽ" thì tốc độ tăng M2 và tín dụng vẫn là trên chục phần trăm/năm)? Trong bối cảnh nguồn dự trữ ngoại hối mỏng và luôn trên đà cạn kiệt, năng lực xử lý và khả năng đối phó với các bất ổn vĩ mô còn rất hạn chế, (và kết quả là) thói quen hay dùng đến các công cụ hành chính thay cho công cụ thị trường, cũng như thực tế trong quá khứ NHNN đã nhiều lần phải "nói một đằng, kết quả ra một nẻo", thì việc NHNN tuyên bố cam kết giữ ổn định tỷ giá (không tăng quá 1%) như vừa rồi là điều rất không nên, chí ít vì... chẳng mấy ai tin!
Để thuyết phục công luận rằng mục tiêu phá giá này (không quá 1%) là hoàn toàn có thể đạt được, NHNN phải cho thấy cung tiền hoặc là không đổi (không tăng), hoặc là giảm đi (thắt chặt tiền tệ). Vì thế, cung cách xử lý hiện nay, thường dừng lại ở việc công bố những con số thống kê nào là FDI và kiều hối là bao nhiêu, thặng dư tài khoản vốn là thế này v.v..., sẽ chẳng mang lại hiệu quả đáng kể nào. Chừng nào còn dấu hiệu của lạm phát, với CPI ở mức dương, thì chừng đó lòng tin sẽ còn rất mong manh.
Cũng có người khuyến nghị hãy tuyên bố một chủ trương phá giá dần dần (và định kỳ) để tránh cho thị trường những cú sốc lớn khi NHNN buộc phải phá giá trong trường hợp kiên định giữ tỷ giá một cách thái quá, còn các chủ thế kinh tế thì tiên liệu được trước tình hình để có những điều chỉnh chiến lược sản xuất kinh doanh cho phù hợp. Nhưng việc này cũng là một con dao 2 lưỡi vì xu hướng thị trường được bảo đảm ngầm định như vậy sẽ là mảnh đất tốt cho sự đầu cơ với kỳ vọng tỷ giá chắc chắn sẽ càng ngày càng tăng lên.
Vậy chỉ còn một giải pháp xem ra ít rủi ro hơn là NHNN hoặc không tuyên bố gì/rõ về chủ trương trong chính sách ngoại hối của mình, hoặc là vẫn tiếp tục trung thành với "chiêu" cũ: "điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường" với những cú điều chỉnh tăng giảm đột ngột và bất thường, như được dùng cho đển trước thời điểm có tuyên bố giữ cho tỷ giá không tăng quá 1%, ít nhất cũng sẽ có tác dụng một phần nào đó làm nản lòng các nhà đầu cơ vì "không biết đường nào mà lần", đồng thời làm giảm áp lực lên tỷ giá do không còn bị chịu nhiều áp lực phát sinh từ chuyện bất đối xứng đồng tiền.
Câu hỏi lớn nhất mà dư luận đang quan tâm về chuyện tỷ giá là liệu NHNN có giữ được cái mục tiêu này hay buộc phải "điều chỉnh" hơn thế nữa.
Đứng ở góc độ NHNN nói riêng, Chính phủ nói chung, có một số lý do quan trọng để đưa tỷ giá vào vòng kiểm soát chặt chẽ.
Tỷ giá với lạm phát
Trước hết, nếu tỷ giá biến động mạnh (thường đồng nghĩa với phá giá nội tệ, hay được "điều chỉnh" mạnh ở Việt Nam), nó sẽ châm ngòi hoặc làm gia tăng vòng xoáy lạm phát, thông qua kênh nhập khẩu, cũng như vòng xoáy chuyển đổi danh mục tài sản từ/bằng VND ra đôla.
Mặc dù, về lý thuyết, phá giá nội tệ cũng cải thiện tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, nhưng xem ra xuất khẩu của Việt Nam cho đến nay có vẻ không bị ảnh hưởng nhiều lắm bởi biến động tỷ giá VND/USD. Trong nhiều trường hợp, tác động của những yếu tố khác mới là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, ví dụ như sự gia tăng giá cả hàng hóa trên thế giới, thỏa thuận thương mại song phương và đa phương, các biện pháp hỗ trợ/trợ cấp xuất khẩu của Chính phủ, và thậm chí là sự chủ động bán hàng phá giá của một số doanh nghiệp và ngành nghề ở Việt Nam để giành giật thị trường và/hoặc giải phóng năng lực sản xuất dư thừa trong nước v.v...
Vì thế, nếu xét đến tác động vĩ mô như trên thì NHNN thường mong muốn xác lập tỷ giá VND/USD ở mức ổn định nhất có thể (về mặt danh nghĩa) hoặc chỉ biến động trong một biên độ hạn hẹp.
Tuy nhiên, cần phải hiểu sâu hơn một chút về quan hệ nhân quả giữa lạm phát và tỷ giá. Theo cách hiểu trên thì tỷ giá gây ra lạm phát và vì thể để chống lạm phát cần phải ổn định tỷ giá. Nhưng trên thực tế ở Việt Nam, đa phần áp lực đẩy tỷ giá tăng (nội tệ mất giá) là xuất phát từ lạm phát. Và lạm phát thì lại thường là kết quả trực tiếp của chính sách tiền tệ nới lỏng gây ra. Vì thế, có thể nói hành động ổn định tỷ giá để kiềm chế lạm phát như vậy về bản chất là vừa không trị đúng nguồn gốc căn bệnh lạm phát là do cung tiền tăng, lại vừa tốn kém một cách vô ích vì phải dùng quỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp bình ổn tỷ giá mà rốt cuộc vẫn phải phá giá. Việc này cũng tương tự như bệnh nhân huyết áp cao tiếp tục ăn nhiều mỡ, muối trong khi lại bỏ tiền ra để mua và dùng thuốc để hạ huyết áp.
Tỷ giá với đầu cơ tiền tệ và ổn định môi trường kinh doanh
Lý do quan trọng thứ hai để NHNN ưa chuộng một chế độ tỷ giá tương đối ổn định là nhằm bảo đảm một môi trường kinh doanh tương đối ổn định để doanh nghiệp có thể tính toán được bài toán đầu tư và lợi nhuận để yên tâm đầu tư mà không sợ phải đối mặt với những rủi ro bất trắc từ biến động tỷ giá. Tuy nhiên, thiện ý này cũng chính là con dao 2 lưỡi và là một trong những nguồn gây bất ổn cho chính sách tỷ giá của NHNN hiện nay.
Chỉ còn một giải pháp xem ra ít rủi ro hơn là NHNN hoặc không tuyên bố gì/rõ về chủ trương trong chính sách ngoại hối của mình (ảnh minh họa - Lao động)
Với tuyên bố giữ tỷ giá không tăng quá 1% trong năm nay của NHNN, các doanh nghiệp đương nhiên được ngầm khuyến khích đi vay bằng ngoại tệ để sản xuất kinh doanh với lợi ích nhãn tiền rõ ràng là lãi suất đi vay ngoại tệ thấp hơn hẳn rất nhiều so với VND, trong khi đáng chú ý là nhiều trong số họ có doanh thu bằng VND. Tinh trạng bất đối xứng đồng tiền (currency mismatch) như vậy sẽ gây thêm áp lực rất lớn cho NHNN trong việc cố gắng thực hiện mục tiêu ổn định tỷ giá khi thời hạn trả nợ các khoản vay ngoại tệ đang đến dồn dập vào thời điểm cuối năm.
Ngoài ra, thiện ý trên cũng nhằm mục đích sâu xa là triệt tiêu động cơ đầu cơ tiền tệ, với quan niệm rằng khi đã tuyên bố (và trên thực tế có cố gắng thực hiện) ổn định tỷ giá như vậy thì giới đầu cơ chẳng có lý do gì để kỳ vọng tỷ giá sẽ tăng vọt nay may hòng kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, vì đây thường là cuộc chiến không cân sức giữa một bên là NHNN và bên kia là thị trường, với cán cân thường nghiêng về phía thị trường, với cả một bản ghi "thành tích" đầy đủ trong quá khứ nên rốt cuộc ý đồ này cũng trở nên phản tác dụng khi chính nó (sự kìm nén tỷ giá) lại trở thành ngòi nổ cho những đợt phá giá mạnh khi NHNN không còn cách nào khác.
Tỷ giá với gánh nặng trả nợ nước ngoài
Một lý do rất quan trọng khác góp mặt vào chủ trương ổn định tỷ giá VND/USD là chuyện liên quan đến trả nợ nước ngoài. Có thể nói cho đến nay chắc chắn gần như 100% số người được hỏi sẽ cho rằng để tỷ giá tăng mạnh (tức phá giá mạnh VND) sẽ làm cho gánh nặng nợ quốc gia, nợ của doanh nghiệp bằng ngoại tệ tăng lên. Tuy nhiên, rất tiếc đây lại là một nhận định chưa đầy đủ.
Trên bề mặt thì đúng là nếu VND bị phá giá ví dụ 5%, gánh nặng nợ bằng ngoại tệ nhưng quy ra VND sẽ tăng thêm đúng 5%. Trước đây, Chính phủ và doanh nghiệp chỉ cần huy động 20 triệu VND để mua USD và trả cho mỗi 100 USD tiền vay nợ trong và ngoài nước. Nếu phá giá VND 5% thì con số VND cần để mua được mỗi 100 USD sẽ là 21 triệu. Đúng là Chính phủ và doanh nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng từ việc phá giá này bằng cách thu hẹp tương ứng lợi nhuận ròng của mình tính bằng VND (đối với doanh nghiệp) hoặc tăng thêm thâm hụt ngân sách (đối với Chính phủ).
Nhưng đây mới chỉ là một phần (nổi) của câu chuyện. Nếu giả sử VND bị áp lực phải phá giá 5% để lập lại cân bằng thương mại, nhưng NHNN kiên định không phá giá với nỗi e ngại nêu trên. Để kiên định làm được việc này, NHNN phải hoặc là dùng các biện pháp hành chính để duy trì mức tỷ giá danh nghĩa hiện thời (ví dụ bằng cách theo dõi, thanh tra và phạt các tổ chức tài chính tín dụng mua bán ngoại tệ vượt quá biên độ cho phép), và/hoặc là tung USD trong quỹ dự trữ ngoại hối của mình ra thị trường để ổn định tỷ giá hiện hành. Cách thứ nhất thì NHNN đã và đang làm, nhưng tất nhiên chỉ hữu hiệu được một thời gian rồi cũng phải theo cách thứ hai, như thực tế đã cho thấy.
Tóm lại, rốt cuộc, hao hụt quỹ dự trữ ngoại hối là cái giá trực tiếp phải trả để ổn định tỷ giá, và sâu xa hơn nữa là để tránh cho gánh nặng nợ nần bằng ngoại tệ (tính theo VND) của các doanh nghiệp và Chính phủ không tăng lên. Suy ra tiếp điều gì nữa? Doanh nghiệp thì có lợi vì tự nhiên được "bù lỗ", "bao cấp" một cách gián tiếp từ nguồn lực quốc gia. Đối với cả quốc gia, vì gánh nặng nợ của Chính phủ được đổ lên vai NHNN nên rút cục tiền chỉ chui từ túi nọ sang túi kia (ví dụ, từ NHNN sang Bộ Tài chính). Đến đây, ta có thể thấy rõ ai sẽ kêu gọi không phá giá và NHNN có nên phá giá không khi cần thiết phải làm thế.
Điều đáng lo ngại hơn là hành động can thiệp ổn định tỷ giá của NHNN không thể ở quy mô lớn và kéo dài được vì quỹ dự trữ ngoại hối nhỏ nhoi của mình. Cuối cùng thì NHNN cũng phải chấp nhận phá giá VND khi áp lực phá giá tiếp tục tăng lên. Càng o ép, càng "kiên định" với ổn định tỷ giá lâu thì mức phá giá sau này càng lớn, như thực tế minh họa. Và lúc đó thì cả doanh nghiệp và Chính phủ đều không tránh khỏi phải đối mặt với gánh nặng nợ nần lớn hơn quy ra theo VND, và cũng tức là cái giá phải trả lớn hơn từ dự trữ ngoại hối của NHNN.
Như vậy, có thể thấy sự chần chừ, e ngại phá giá VND, "điều chỉnh" VND thường xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn về vai trò của tỷ giá trong việc kiềm chế lạm phát, về mối quan hệ giữa trả nợ nước ngoài và phá giá nội tệ, cũng như về vai trò của tỷ giá với ổn định môi trường kinh doanh, triệt tiêu động cơ đầu cơ tiền tệ v.v...
Lập trường trong chính sách tỷ giá
Với nhiều lý do, nhưng đa phần không chính đáng như phân tích ở trên, có thể thấy sẽ là điều nguy hại nếu NHNN một mặt tiếp tục thi hành chính sách tiền tệ nới lỏng để hậu thuẫn tăng trưởng, một mặt tìm mọi cách để "ổn định" tỷ giá.
Nhưng giả sử nếu NHNN buộc phải tiếp tục thi hành chính sách tiền tệ nới lỏng (không nhiều thì ít) vì một áp lực nào đó. Kết cục đương nhiên là áp lực lạm phát gia tăng và áp lực phá giá nội tệ (tăng tỷ giá) cũng gia tăng. Khi đó, nếu NHNN khiên cưỡng và cố gắng một cách thái quá không thực hiện phá giá khi tình hình đòi hỏi phải phá giá thì sự ổn định (nếu có) và sự chống đỡ của NHNN trước áp lực phá giá của thị trường cũng chỉ mang tính ngắn hạn hay chỉ thành công trong ngắn hạn, để rồi khi buộc phải phá giá, hậu quả của nó lên lạm phát sẽ ở mức trầm trọng hơn do còn có sự góp mặt của tâm lý và kỳ vọng phá giá tiếp tục do NHNN đã rơi vào thế "sức cùng lực kiệt" và sẽ dễ dàng/tiếp tục bị tấn công bởi giới đầu cơ tiền tệ.
Vậy NHNN cần có sách lược "PR" với công chúng về lập trường trong chính sách ngoại hối của mình như thế nào cho thích hợp nhất trong hoàn cảnh buộc phải tăng cung tiền (kể cả như hiện nay, mặc dù chính sách tiền tệ được nhấn mạnh là "chặt chẽ" thì tốc độ tăng M2 và tín dụng vẫn là trên chục phần trăm/năm)? Trong bối cảnh nguồn dự trữ ngoại hối mỏng và luôn trên đà cạn kiệt, năng lực xử lý và khả năng đối phó với các bất ổn vĩ mô còn rất hạn chế, (và kết quả là) thói quen hay dùng đến các công cụ hành chính thay cho công cụ thị trường, cũng như thực tế trong quá khứ NHNN đã nhiều lần phải "nói một đằng, kết quả ra một nẻo", thì việc NHNN tuyên bố cam kết giữ ổn định tỷ giá (không tăng quá 1%) như vừa rồi là điều rất không nên, chí ít vì... chẳng mấy ai tin!
Để thuyết phục công luận rằng mục tiêu phá giá này (không quá 1%) là hoàn toàn có thể đạt được, NHNN phải cho thấy cung tiền hoặc là không đổi (không tăng), hoặc là giảm đi (thắt chặt tiền tệ). Vì thế, cung cách xử lý hiện nay, thường dừng lại ở việc công bố những con số thống kê nào là FDI và kiều hối là bao nhiêu, thặng dư tài khoản vốn là thế này v.v..., sẽ chẳng mang lại hiệu quả đáng kể nào. Chừng nào còn dấu hiệu của lạm phát, với CPI ở mức dương, thì chừng đó lòng tin sẽ còn rất mong manh.
Cũng có người khuyến nghị hãy tuyên bố một chủ trương phá giá dần dần (và định kỳ) để tránh cho thị trường những cú sốc lớn khi NHNN buộc phải phá giá trong trường hợp kiên định giữ tỷ giá một cách thái quá, còn các chủ thế kinh tế thì tiên liệu được trước tình hình để có những điều chỉnh chiến lược sản xuất kinh doanh cho phù hợp. Nhưng việc này cũng là một con dao 2 lưỡi vì xu hướng thị trường được bảo đảm ngầm định như vậy sẽ là mảnh đất tốt cho sự đầu cơ với kỳ vọng tỷ giá chắc chắn sẽ càng ngày càng tăng lên.
Vậy chỉ còn một giải pháp xem ra ít rủi ro hơn là NHNN hoặc không tuyên bố gì/rõ về chủ trương trong chính sách ngoại hối của mình, hoặc là vẫn tiếp tục trung thành với "chiêu" cũ: "điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường" với những cú điều chỉnh tăng giảm đột ngột và bất thường, như được dùng cho đển trước thời điểm có tuyên bố giữ cho tỷ giá không tăng quá 1%, ít nhất cũng sẽ có tác dụng một phần nào đó làm nản lòng các nhà đầu cơ vì "không biết đường nào mà lần", đồng thời làm giảm áp lực lên tỷ giá do không còn bị chịu nhiều áp lực phát sinh từ chuyện bất đối xứng đồng tiền.
Friday, 4 November 2011
Tăng dự trữ bắt buộc có 'cứu' được thanh khoản? (dang tren VEF)
(VEF.VN) - TS. Phan Minh Ngọc cho rằng, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tăng lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc tuy không làm tăng áp lực lạm phát nhưng không nhất thiết cải thiện được thanh khoản cho ngân hàng thương mại.
LTS: Phản biện một số bài viết gần đây liên quan đến đề xuất tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, TS. Phan Minh Ngọc, Phó giám đốc nghiên cứu DN của Ngân hàng Sumitomo Mitsui chi nhánh Singapore, đã có bài phân tích cụ thể, rõ ràng với ví dụ dễ hiểu về lý do tại sao hành động tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và sau đó dùng phần dự trữ bắt buộc tăng lên này cho ngân hàng thiếu hụt thanh khoản vay sẽ không nhất thiết cải thiện được thanh khoản cho ngân hàng đó.
Diễn đàn Kinh tế Việt Nam (VEF.VN) - báo VietNamNet trân trọng giới thiệu bài viết, mời độc giả cùng tham gia tranh luận.
Gần đây có một số kiến nghị nâng cả tỷ lệ dự trữ bắt buộc (chẳng hạn lên 10% từ mức 3-4% như hiện tại) và lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc (chẳng hạn lên 12-13%/năm) để giải bài toán khó khăn thanh khoản ở các ngân hàng thương mại trong bối cảnh chính sách tiền tệ vẫn phải thắt chặt (mà theo cách hiểu và cách dùng từ của Ngân hàng Nhà nước hiện nay là "chặt chẽ") để kiềm chế lạm phát. Mới đây nhất có bài trả lời phỏng vấn VEF.VN của cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), ông Lê Đức Thúy. Còn trước đó một thời gian thì có bài viết của nhà báo Hải Lý trên TBKTSG (1).
Có thể thấy xuất phát điểm của luồng ý kiến này là việc làm sao để giảm căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng (và nhờ đó giúp giảm lãi suất) mà không gây thêm áp lực lên NHNN để tăng cung tiền, vốn sẽ gây thêm áp lực tăng lạm phát, theo kiểu "lấy mỡ nó rán nó". Không biết vô tình hay hữu ý mà cả hai tác giả đều dùng cụm từ này (ngoài một số nội dung khác cũng giống nhau) để mô tả hành động đó, nếu có, của NHNN, nhằm lấy vốn từ những ngân hàng dư thừa vốn cho vay lại những ngân hàng đang thiếu thanh khoản.
Ý kiến trên có một số bất ổn cả về mặt khái niệm lẫn số học.
Theo ông Thúy thì: "Nếu trả lãi suất cho những khoản tiền gửi bắt buộc ấy thì sẽ thu hút được lượng tiền nhàn rỗi của các ngân hàng thừa và cho vay lại đối với những ngân hàng thiếu ở mức lãi suất cao hơn, vừa đảm bảo bù đắp chi phí lại vừa không phải bơm tiền ra nền kinh tế" (người viết bôi đậm).
Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, sau đó dùng phần dự trữ bắt buộc tăng lên này cho ngân hàng thiếu hụt thanh khoản vay sẽ không nhất thiết cải thiện được thanh khoản cho ngân hàng đó (ảnh minh họa - SGTT)
Về mặt khái niệm, có thể nói ngay dự trữ bắt buộc không phải là/không liên quan gì đến "tiền nhàn rỗi của các ngân hàng thừa" như ông nói. Khi ngân hàng thương mại huy động được 100 triệu VND, giả sử với tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện hành là 4% thì lập tức ngân hàng thương mại đó phải trích gửi vào tài khoản dự trữ bắt buộc ở NHNN một khoản là 4 triệu VND, bất kể ngân hàng đó đang thừa hay thiếu vốn. Số tiền 4 triệu này có thể được hoặc không được NHNN trả lãi, tùy từng thời điểm. Nhưng thông thường, vì đã gọi là "bắt buộc" nên nếu có được trả thì lãi suất cũng ở mức rất tượng trưng so với lãi suất cho vay thương mại.
Còn nếu ngân hàng thương mại mà thừa vốn và giả sử nó không huy động tiền gửi nữa thì NHNN về nguyên tắc chẳng có quyền gì yêu cầu ngân hàng trên phải nộp dự trữ bắt buộc (tất nhiên nếu NHNN "lạm quyền" thì có thể bắt buộc ngân hàng thương mại mua tín phiếu hay một loại hình bắt buộc tương tự mà hình như đã từng xảy ra để giảm (dư thừa) thanh khoản của (một số) ngân hàng thương mại).
Cần nói thêm, dự trữ bắt buộc là một công cụ nặng ký của chính sách tiền tệ của NHNN để điều tiết cung tiền vào nền kinh tế. Vì thế mục đích của việc tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc là để giảm hay tăng (theo chiều ngược lại) cung tiền, tương ứng là hút thêm tiền về két sắt của NHNN hay tung thêm tiền ra lưu thông. Do đó, về khái niệm và bản chất, dự trữ bắt buộc không phải là công cụ vi mô, điều tiết vốn từ chỗ này/ngân hàng này sang chỗ khác/ngân hàng khác như các tác giả này hiểu.
Tiếp theo, vì các quy định về dự trữ bắt buộc, theo nguyên tắc, là áp dụng chung cho cả hệ thống ngân hàng nên khi NHNN công bố rằng sẽ nâng cả tỷ lệ dự trữ bắt buộc lẫn lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì các mức mới này sẽ phải được áp dụng đồng đều cho tất cả các ngân hàng, chứ không chỉ riêng một ngân hàng nào đó. Hành động này có thể sẽ làm tăng khối lượng dự trữ bắt buộc ròng mà NHNN thu được từ hệ thống ngân hàng nhưng không nhất thiết sẽ làm cho thanh khoản của một ngân hàng nào đó được cải thiện, về mặt số học, kể cả khi NHNN đem cho vay lại một phần dự trữ bắt buộc thu được này.
Cụ thể hơn, giả thiết NHNN nghe theo khuyến nghị trên và chấp nhận tăng cả tỷ lệ dự trữ bắt buộc và lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc. Giả sử ngân hàng thương mại A đang thiếu hụt thanh khoản, và ngân hàng B thì ngược lại. Giả định rằng cả A và B đều đã huy động được 100 triệu VND tiền gửi. Giả sử thêm rằng hiện tại tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 4% thì khối lượng dự trữ bắt buộc mà NHNN thu được từ A là 4 triệu, và từ B cũng là 4 triệu. Trừ số này đi thì mỗi ngân hàng chỉ huy động ròng được 96 triệu (chưa tính lãi do NHNN trả cho phần dự trữ bắt buộc).
Nếu NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện nay lên 10% thì NHNN sẽ thu về 10 triệu dự trữ bắt buộc từ A và 10 triệu từ B trước khi trả lãi cho khoản dự trữ bắt buộc này. Với 10 triệu dự trữ bắt buộc phải nộp này, A hay B chỉ thu được 90 triệu vốn ròng từ số vốn huy động 100 triệu. Giả thiết NHNN trả lãi cho dự trữ bắt buộc một lần sau 1 năm nữa nên tại thời điểm tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHNN đã thu được từ A hay B một khoản chênh lệch dự trữ bắt buộc so với trước khi tăng dự trữ bắt buộc là 10 - 4 = 6 triệu.
Sau đó, giả thiết rằng NHNN dùng một phần của 6 triệu chênh lệch nói trên thu được từ B và cho A vay (vì NHNN phải trích lại một phần trong số 6 triệu nói trên đã trả cho dự trữ bắt buộc của B sau 1 năm nữa). Trước khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì A sẽ chỉ huy động được 96 triệu. Sau khi NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 10% thì A cũng sẽ chỉ có <96 triệu, là tổng số của 90 triệu (là vốn ròng từ 100 triệu huy động) cộng với <6 triệu cho vay thêm từ NHNN.
Như vậy, so sánh thời điểm trước và sau khi NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì A vẫn chỉ thu ròng được <96 triệu vốn, và vì thế người viết mới nói ở phần trên rằng thanh khoản của A không nhất thiết được cải thiện kể cả khi NHNN "rán mỡ" B chia cho A.
Tất nhiên, tính toán trên sẽ cho kết quả khác nếu NHNN còn thêm ưu ái A bằng cách hoàn lại phần dự trữ bắt buộc thu của A cho A. Kết quả cũng sẽ khác đi tuỳ thuộc vào số vốn huy động của A và B (A có thể được thêm thanh khoản nếu số vốn huy động của A nhỏ hơn B; và ngược lại).
Do đó, nếu các tác giả trên muốn khuyến nghị NHNN "chơi" công cụ dự trữ bắt buộc theo kiểu riêng của mình, không theo thông lệ quốc tế, thì thay vì đề xuất nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc như trên (là cái không chắc chắn mang lại kết quả như mong muốn), họ nên đề xuất NHNN trực tiếp áp đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho mỗi (nhóm) ngân hàng, cho giản tiện, dễ hiểu, dễ áp dụng mà vẫn thu được kết quả như ý muốn là "dùng mỡ nó rán nó". Cụ thể hơn, với A là ngân hàng đang bị thiếu thanh khoản thì thay vì áp dụng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc 4% như hiện tại, NHNN nên áp dụng tỷ lệ 0%, thế là đương nhiên lượng vốn ròng thu được từ huy động 100 triệu vẫn là 100 triệu, nhiều hơn 4 triệu so với trường hợp phải trả 4% dự trữ bắt buộc. Điều này cũng có nghĩa là A đã có thêm thanh khoản.
Còn với B là ngân hàng đang dư thừa thanh khoản thì NHNN áp luôn mức 10% như đề xuất ban đầu (đồng thời để cho công bằng hơn thì có thể trả lãi suất 12%, thậm chí là 15%/năm cho khoản dự trữ bắt buộc này). Như vậy, NHNN lập tức có ngay thêm 10 triệu dự trữ bắt buộc, cũng tức là có nhiều hơn 10 - 4 - 4 = 2 triệu so với khi áp tỷ lệ dự trữ bắt buộc 4% lên A và B cho khoản huy động 100 triệu của họ. NHNN có thể đem một phần lớn trong số 2 triệu trên (để lại một phần nhỏ để trả lãi cho B sau một năm nữa) cho A vay thêm để cải thiện hơn nữa thanh khoản của nó.
Có điều, dù giản tiện, dễ hiểu, dễ thi hành nhưng hành động trên của NHNN thuần túy mang tính chất hành chính, chủ quan, áp đặt và không minh bạch, dễ gây bất đồng, phản đối, và hoàn toàn rất có thể bị lợi dụng bởi một nhóm lợi ích nào đó. Khi đó, tuy có thể đạt được mong muốn trước mắt nhưng liệu NHNN có còn muốn áp dụng nữa không, và hậu quả về lâu dài có đong đếm được hay không là một số vấn đề mà NHNN cần suy nghĩ hai lần trước khi quyết định.
______________________
(1). Xem: http://www.thesaigontimes.vn/epaper2010/TB-KTSG/645/#/17.
LTS: Phản biện một số bài viết gần đây liên quan đến đề xuất tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, TS. Phan Minh Ngọc, Phó giám đốc nghiên cứu DN của Ngân hàng Sumitomo Mitsui chi nhánh Singapore, đã có bài phân tích cụ thể, rõ ràng với ví dụ dễ hiểu về lý do tại sao hành động tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và sau đó dùng phần dự trữ bắt buộc tăng lên này cho ngân hàng thiếu hụt thanh khoản vay sẽ không nhất thiết cải thiện được thanh khoản cho ngân hàng đó.
Diễn đàn Kinh tế Việt Nam (VEF.VN) - báo VietNamNet trân trọng giới thiệu bài viết, mời độc giả cùng tham gia tranh luận.
Gần đây có một số kiến nghị nâng cả tỷ lệ dự trữ bắt buộc (chẳng hạn lên 10% từ mức 3-4% như hiện tại) và lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc (chẳng hạn lên 12-13%/năm) để giải bài toán khó khăn thanh khoản ở các ngân hàng thương mại trong bối cảnh chính sách tiền tệ vẫn phải thắt chặt (mà theo cách hiểu và cách dùng từ của Ngân hàng Nhà nước hiện nay là "chặt chẽ") để kiềm chế lạm phát. Mới đây nhất có bài trả lời phỏng vấn VEF.VN của cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), ông Lê Đức Thúy. Còn trước đó một thời gian thì có bài viết của nhà báo Hải Lý trên TBKTSG (1).
Có thể thấy xuất phát điểm của luồng ý kiến này là việc làm sao để giảm căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng (và nhờ đó giúp giảm lãi suất) mà không gây thêm áp lực lên NHNN để tăng cung tiền, vốn sẽ gây thêm áp lực tăng lạm phát, theo kiểu "lấy mỡ nó rán nó". Không biết vô tình hay hữu ý mà cả hai tác giả đều dùng cụm từ này (ngoài một số nội dung khác cũng giống nhau) để mô tả hành động đó, nếu có, của NHNN, nhằm lấy vốn từ những ngân hàng dư thừa vốn cho vay lại những ngân hàng đang thiếu thanh khoản.
Ý kiến trên có một số bất ổn cả về mặt khái niệm lẫn số học.
Theo ông Thúy thì: "Nếu trả lãi suất cho những khoản tiền gửi bắt buộc ấy thì sẽ thu hút được lượng tiền nhàn rỗi của các ngân hàng thừa và cho vay lại đối với những ngân hàng thiếu ở mức lãi suất cao hơn, vừa đảm bảo bù đắp chi phí lại vừa không phải bơm tiền ra nền kinh tế" (người viết bôi đậm).
Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, sau đó dùng phần dự trữ bắt buộc tăng lên này cho ngân hàng thiếu hụt thanh khoản vay sẽ không nhất thiết cải thiện được thanh khoản cho ngân hàng đó (ảnh minh họa - SGTT)
Về mặt khái niệm, có thể nói ngay dự trữ bắt buộc không phải là/không liên quan gì đến "tiền nhàn rỗi của các ngân hàng thừa" như ông nói. Khi ngân hàng thương mại huy động được 100 triệu VND, giả sử với tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện hành là 4% thì lập tức ngân hàng thương mại đó phải trích gửi vào tài khoản dự trữ bắt buộc ở NHNN một khoản là 4 triệu VND, bất kể ngân hàng đó đang thừa hay thiếu vốn. Số tiền 4 triệu này có thể được hoặc không được NHNN trả lãi, tùy từng thời điểm. Nhưng thông thường, vì đã gọi là "bắt buộc" nên nếu có được trả thì lãi suất cũng ở mức rất tượng trưng so với lãi suất cho vay thương mại.
Còn nếu ngân hàng thương mại mà thừa vốn và giả sử nó không huy động tiền gửi nữa thì NHNN về nguyên tắc chẳng có quyền gì yêu cầu ngân hàng trên phải nộp dự trữ bắt buộc (tất nhiên nếu NHNN "lạm quyền" thì có thể bắt buộc ngân hàng thương mại mua tín phiếu hay một loại hình bắt buộc tương tự mà hình như đã từng xảy ra để giảm (dư thừa) thanh khoản của (một số) ngân hàng thương mại).
Cần nói thêm, dự trữ bắt buộc là một công cụ nặng ký của chính sách tiền tệ của NHNN để điều tiết cung tiền vào nền kinh tế. Vì thế mục đích của việc tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc là để giảm hay tăng (theo chiều ngược lại) cung tiền, tương ứng là hút thêm tiền về két sắt của NHNN hay tung thêm tiền ra lưu thông. Do đó, về khái niệm và bản chất, dự trữ bắt buộc không phải là công cụ vi mô, điều tiết vốn từ chỗ này/ngân hàng này sang chỗ khác/ngân hàng khác như các tác giả này hiểu.
Tiếp theo, vì các quy định về dự trữ bắt buộc, theo nguyên tắc, là áp dụng chung cho cả hệ thống ngân hàng nên khi NHNN công bố rằng sẽ nâng cả tỷ lệ dự trữ bắt buộc lẫn lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì các mức mới này sẽ phải được áp dụng đồng đều cho tất cả các ngân hàng, chứ không chỉ riêng một ngân hàng nào đó. Hành động này có thể sẽ làm tăng khối lượng dự trữ bắt buộc ròng mà NHNN thu được từ hệ thống ngân hàng nhưng không nhất thiết sẽ làm cho thanh khoản của một ngân hàng nào đó được cải thiện, về mặt số học, kể cả khi NHNN đem cho vay lại một phần dự trữ bắt buộc thu được này.
Cụ thể hơn, giả thiết NHNN nghe theo khuyến nghị trên và chấp nhận tăng cả tỷ lệ dự trữ bắt buộc và lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc. Giả sử ngân hàng thương mại A đang thiếu hụt thanh khoản, và ngân hàng B thì ngược lại. Giả định rằng cả A và B đều đã huy động được 100 triệu VND tiền gửi. Giả sử thêm rằng hiện tại tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 4% thì khối lượng dự trữ bắt buộc mà NHNN thu được từ A là 4 triệu, và từ B cũng là 4 triệu. Trừ số này đi thì mỗi ngân hàng chỉ huy động ròng được 96 triệu (chưa tính lãi do NHNN trả cho phần dự trữ bắt buộc).
Nếu NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện nay lên 10% thì NHNN sẽ thu về 10 triệu dự trữ bắt buộc từ A và 10 triệu từ B trước khi trả lãi cho khoản dự trữ bắt buộc này. Với 10 triệu dự trữ bắt buộc phải nộp này, A hay B chỉ thu được 90 triệu vốn ròng từ số vốn huy động 100 triệu. Giả thiết NHNN trả lãi cho dự trữ bắt buộc một lần sau 1 năm nữa nên tại thời điểm tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHNN đã thu được từ A hay B một khoản chênh lệch dự trữ bắt buộc so với trước khi tăng dự trữ bắt buộc là 10 - 4 = 6 triệu.
Sau đó, giả thiết rằng NHNN dùng một phần của 6 triệu chênh lệch nói trên thu được từ B và cho A vay (vì NHNN phải trích lại một phần trong số 6 triệu nói trên đã trả cho dự trữ bắt buộc của B sau 1 năm nữa). Trước khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì A sẽ chỉ huy động được 96 triệu. Sau khi NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 10% thì A cũng sẽ chỉ có <96 triệu, là tổng số của 90 triệu (là vốn ròng từ 100 triệu huy động) cộng với <6 triệu cho vay thêm từ NHNN.
Như vậy, so sánh thời điểm trước và sau khi NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì A vẫn chỉ thu ròng được <96 triệu vốn, và vì thế người viết mới nói ở phần trên rằng thanh khoản của A không nhất thiết được cải thiện kể cả khi NHNN "rán mỡ" B chia cho A.
Tất nhiên, tính toán trên sẽ cho kết quả khác nếu NHNN còn thêm ưu ái A bằng cách hoàn lại phần dự trữ bắt buộc thu của A cho A. Kết quả cũng sẽ khác đi tuỳ thuộc vào số vốn huy động của A và B (A có thể được thêm thanh khoản nếu số vốn huy động của A nhỏ hơn B; và ngược lại).
Do đó, nếu các tác giả trên muốn khuyến nghị NHNN "chơi" công cụ dự trữ bắt buộc theo kiểu riêng của mình, không theo thông lệ quốc tế, thì thay vì đề xuất nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc như trên (là cái không chắc chắn mang lại kết quả như mong muốn), họ nên đề xuất NHNN trực tiếp áp đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho mỗi (nhóm) ngân hàng, cho giản tiện, dễ hiểu, dễ áp dụng mà vẫn thu được kết quả như ý muốn là "dùng mỡ nó rán nó". Cụ thể hơn, với A là ngân hàng đang bị thiếu thanh khoản thì thay vì áp dụng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc 4% như hiện tại, NHNN nên áp dụng tỷ lệ 0%, thế là đương nhiên lượng vốn ròng thu được từ huy động 100 triệu vẫn là 100 triệu, nhiều hơn 4 triệu so với trường hợp phải trả 4% dự trữ bắt buộc. Điều này cũng có nghĩa là A đã có thêm thanh khoản.
Còn với B là ngân hàng đang dư thừa thanh khoản thì NHNN áp luôn mức 10% như đề xuất ban đầu (đồng thời để cho công bằng hơn thì có thể trả lãi suất 12%, thậm chí là 15%/năm cho khoản dự trữ bắt buộc này). Như vậy, NHNN lập tức có ngay thêm 10 triệu dự trữ bắt buộc, cũng tức là có nhiều hơn 10 - 4 - 4 = 2 triệu so với khi áp tỷ lệ dự trữ bắt buộc 4% lên A và B cho khoản huy động 100 triệu của họ. NHNN có thể đem một phần lớn trong số 2 triệu trên (để lại một phần nhỏ để trả lãi cho B sau một năm nữa) cho A vay thêm để cải thiện hơn nữa thanh khoản của nó.
Có điều, dù giản tiện, dễ hiểu, dễ thi hành nhưng hành động trên của NHNN thuần túy mang tính chất hành chính, chủ quan, áp đặt và không minh bạch, dễ gây bất đồng, phản đối, và hoàn toàn rất có thể bị lợi dụng bởi một nhóm lợi ích nào đó. Khi đó, tuy có thể đạt được mong muốn trước mắt nhưng liệu NHNN có còn muốn áp dụng nữa không, và hậu quả về lâu dài có đong đếm được hay không là một số vấn đề mà NHNN cần suy nghĩ hai lần trước khi quyết định.
______________________
(1). Xem: http://www.thesaigontimes.vn/epaper2010/TB-KTSG/645/#/17.
Subscribe to:
Posts (Atom)
Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ
(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).