Saturday, 5 May 2012

Vinashin nhìn từ HBB và SHB


Trong entry trước tớ mới nói qua về chuyện cứu Vinashin. Hôm nay đọc lại/thêm một số chi tiết về khoản lỗ hơn 4.000 tỷ của HBB, tớ phải khâm phục trình độ võ thuật cao thâm của các đồng chí có trách nhiệm/liên đới đến Vinashin.

Võ đầu tiên là của NHNN, cho phép chia nhỏ trích lập dự phòng thành một số năm thay vì trong một năm. Thay vì bị trích lập dự phòng đầy đủ 2.236 tỷ ngay trong năm nay, SHB đã được phép phân bổ con số này ra thành 5 năm. Nhờ một bút toán “đơn giản” nhưng nặng cân như vậy, con số lỗ đến 2/2012 chỉ còn 1.829 tỷ đồng.

Để xử lý khoản lỗ này, SHB được tạo điều kiện tối đa và rất có lợi để có đủ nguồn tài chính bù đắp. Chính phủ dùng võ hoán đổi 30% trái phiếu Vinashin thành trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh của Chính phủ. NHNN nhảy tiếp vào, dùng thêm ngón võ cho phép SHB dùng 70% trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh này để thế chấp vay trên OMO với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động (tức là một hình thức cấp vốn ưu đãi).

Vẫn chưa đã, NHNN sẽ cho SHB vay tái cấp vốn với giá trị tương đương 25% trên tổng dư nợ và trái phiếu của Vinashin với lãi suất 10%/năm trong thời hạn 5 năm (và lại còn được tăng giảm từng thời điểm để đảm bảo lãi suất tái cấp vốn này luôn ở mức ưu đãi, chắc vì e ngại rằng cuối năm nay hay sang năm sau, mặt bằng lãi suất chung sẽ hạ xuống dưới 10%/năm, do đó lãi suất tái cấp vốn này trở nên không còn ưu đãi nữa).

Tóm lại, với các khoản nợ khổng lồ và sự tuyên bố mạnh miệng của một số nhân vật liên quan, tưởng như Vinashin sẽ đứt hơi vì phải tự thân trả nợ. Nhưng vì là ở Việt Nam nên chuyện này không bao giờ xảy ra. Ngoài những biện pháp hỗ trợ “tép riu”, mà nói trắng ra là dùng tiền thuế của dân để chi trả, như cho vay không lãi để trả lương, xóa thuế nhập khẩu cho Vinashin v.v..., người ta đã hé lộ ra những biện pháp “hỗ trợ” khác, từ chuyện xé lẻ (món nợ của) Vinashin tống sang cho các doanh nghiệp nhà nước khác, đến chuyện trực tiếp dùng ngân sách để trả nợ thay cho Vinashin trong trường hợp nó không trả nợ được (thể hiện qua việc bảo lãnh trái phiếu Vinashin như nói ở trên), hay chuyện NHNN, ngoài chuyện cho phép chia nhỏ lỗ ra thành nhiều năm, in tiền/bơm tiền ra để tái cấp vốn và cho vay trên thị trường OMO (cũng là một hình thức bơm vốn) cho các chủ nợ của Vinashin.

Nếu những biện pháp “hỗ trợ” trực tiếp từ Chính phủ sẽ làm gia tăng nợ công, tăng thâm hụt ngân sách, thì những biện pháp “hỗ trợ” từ NHNN sẽ làm gia tăng cung tiền, dẫn tới gia tăng áp lực lạm phát. Nói cách khác, kiểu gì thì toàn dân Việt Nam cũng sẽ phải è cổ ra để cứu Vinashin, mặc dù đây có thể là điều nằm ngoài ý muốn của họ, còn những người liên đới thì có vẫn có vẻ như vô can.

1 comment:

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).