Friday, 13 July 2012

Đừng tạo thêm những tín hiệu xấu! (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)

 
09:18 | 14/07/2012
Tại Hội nghị tổng kết ngành ngân hàng 6 tháng đầu năm vừa qua, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình kêu gọi và chỉ đạo các ngân hàng nhanh chóng giảm lãi suất các món nợ cũ xuống. Theo đó, lãi suất đối với các khoản vay cũ (trước khi thực hiện cơ chế áp trần lãi suất cho vay) cần được giảm xuống chí ít là còn 15%/năm (bắt đầu từ 15.7), phấn đấu có được các mức thấp như mặt bằng các khoản vay mới hiện nay.
Lý giải cho hành động này, ông Bình giải thích: “Nếu doanh nghiệp đã khó khăn, không có khả năng trả nợ gốc thì việc ghi lãi suất cao không có ý nghĩa gì, nhưng gây phản cảm với xã hội. Còn với doanh nghiệp có thể vượt qua khó khăn mà vẫn duy trì lãi suất cao thì không phải là chia sẻ với doanh nghiệp”. Ông Bình chỉ đạo rằng ngành ngân hàng cần phải thẳng thắn nhìn lại đã hết lòng vì doanh nghiệp chưa, sát cánh cùng ngồi với doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn chưa? Ông cũng nhấn mạnh đây là trọng tâm trong thời gian sắp tới, để thị trường và dư luận thấy rằng ngành Ngân hàng đã có giải pháp kiên quyết hết sức thiết thực hỗ trợ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế.
Sau một loạt những tuyên bố, nhận định và giải pháp (đa phần là hành chính), từ nhẹ đến nặng, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, xem ra tình hình cho vay và đi vay trong nền kinh tế vẫn chưa có mấy chuyển biến tích cực, đến nỗi NHNN phải áp dụng biện pháp áp trần cho cả lãi suất ở các khoản cho vay cũ, có hợp đồng tín dụng đàng hoàng, mang nặng tính pháp lý ràng buộc cho các bên liên quan mà nếu trong hoàn cảnh bình thường thì bất cứ vi phạm nào cũng có thể dẫn đến việc lôi nhau ra tòa được. Không hiểu rồi đây với kiểu quản lý theo mệnh lệnh, bất chấp các quy tắc và chế tài pháp lý như thế này, xã hội sẽ như thế nào.
Bởi vậy, nhìn nhận một cách khách quan, chưa cần phân tích lợi hại, thì hành động trên của NHNN là một giọt nước thêm vào bát nước đầy nỗi nghi ngờ rằng NHNN đã “hết thuốc” và tình hình trong ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung cũng đã “hết thuốc”. Với những lý lẽ như trên của ông Bình, dường như người ta sẽ nghĩ rằng NHNN chỉ cốt lấy được tiếng tốt trong dư luận rằng đã có những chỉ đạo sát sao nhằm tích cực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế mà không mấy cân nhắc liệu có thực hiện được hay không, lợi hay hại đến mức nào cho lợi ích chung của cả nền kinh tế.
Mục đích theo thiết kế của hành động yêu cầu hạ lãi suất nói trên là để giảm khó khăn cho các doanh nghiệp và người đi vay trên diện rộng (tất cả mọi đối tượng), theo phương châm “doanh nghiệp có sống được thì ngân hàng mới sống được”. Về bản chất, hành động này cũng tương tự hành động yêu cầu xóa nợ (một phần) cho doanh nghiệp và người đi vay, bất kể lý do, bất kể đối tượng, bất kể hoàn cảnh v.v... Vậy, đối tượng đầu tiên bị ảnh hưởng đương nhiên là các ngân hàng thương mại khi phải cắt giảm lợi nhuận, thậm chí chịu lỗ cho các khoản vay cũ khi lãi suất huy động của họ cao hơn mức trần 15%.
Chắc người ta quên rằng ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp, phải huy động (và có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ gốc và lãi) thì mới cho vay được, chứ không phải là một tổ chức từ thiện hoặc có nguồn vốn từ trên trời rót xuống. Và câu hỏi ngược tiếp theo là, tại sao lại (chỉ) yêu cầu ngân hàng “chia sẻ” khó khăn chung mà không phải là một ai, một tổ chức nào khác, bao gồm cả doanh nghiệp và người đi vay? Phải chăng tâm lý vốn coi ngân hàng là kẻ “có tiền” và tâm lý “nắm thằng có tóc” được áp dụng triệt để ở đây?
Có người lý luận rằng vốn các khoản cho vay trước đây dù ngân hàng thương mại có phải huy động với lãi suất cao nhưng đa phần là vốn ngắn hạn, trong khi hiện nay đi huy động trung và dài hạn ngân hàng chỉ phải trả lãi suất 9-10% nên ngân hàng vẫn có lãi lớn cho các khoản cho vay cũ. Lý luận kiểu này sai lầm ở chỗ vì là vốn ngắn hạn nên ngân hàng phải liên tục huy động gối đầu các khoản vốn ngắn hạn mới với lãi suất tại thời điểm huy động trước đây (ví dụ 6 tháng, 1 năm trước) vẫn cao hơn nhiều lãi suất huy động hiện thời. Nói cách khác, ở thời điểm trước đây ngân hàng vẫn phải huy động vốn với lãi suất cao, bất kể là dài hạn hay ngắn hạn, và cho vay dài hạn (kéo dài cho đến thời điểm này) nên nếu bị yêu cầu đồng loạt hạ lãi suất các khoản vay cũ thì đương nhiên ngân hàng thậm chí sẽ phải đối mặt với rủi ro mất vốn, chứ không chỉ là giảm lợi nhuận (vốn cũng chỉ ở mức khá khiêm tốn, như thống kê mới công bố gần đây của NHNN, chứ hoàn toàn không “khủng” như những gì dư luận vẫn nhìn nhận). Mà hậu quả này thì cũng tương đương với hậu quả của việc nợ xấu tăng lên do một số doanh nghiệp nào đó không trả được nợ. Nếu có thể cân đong đo đếm được thì thậm chí có khả năng tổng giá trị nợ bị xóa đi theo kiểu này ở một số ngân hàng, nếu làm ráo riết, nghiêm chỉnh theo chỉ đạo, còn lớn hơn cả tổng số nợ xấu của họ.
Đối với doanh nghiệp và người đi vay, thoạt nhìn, đương nhiên họ là người được hưởng lợi vì được xóa một phần nợ như nói trên, theo nguyên tắc cào bằng, bất kể họ là ai, làm ăn thế nào, vay để làm gì v.v... Và thay vì phải dùng đến ngân sách nhà nước để xóa nợ (vốn chẳng lấy đâu ra) hoặc phát hành tiền (vốn sẽ gây lạm phát), NHNN đã đá quả bóng trách nhiệm này cho khối ngân hàng thương mại, để họ tự xoay sở với việc “cứu tế” này, còn NHNN vẫn được tiếng thơm là đã thấu hiểu và chia sẻ khó khăn chung của nền kinh tế.
Nhưng xét cho cùng, doanh nghiệp và người đi vay nói trên cũng sẽ là người gánh chịu hậu quả gián tiếp vì, như đã phân tích, các ngân hàng bị cụt vốn, suy giảm lợi nhuận (tương tự như khi phải gánh một gánh nặng nợ xấu) sẽ buộc phải co cụm lại và/hoặc tìm cách tăng lãi suất cho vay các khoản mới, và/hoặc nâng/duy trì điều kiện cho vay ngặt nghèo, càng làm hạn chế khả năng tiếp cận vốn tín dụng mới và với lãi suất thỏa đáng của giới doanh nghiệp và người đi vay, kể cả những đối tượng được giảm lãi suất cho các khoản vay cũ. Trần lãi suất cho vay trong trường hợp này cũng chẳng có tác dụng gì và có thể lách qua được không mấy khó khăn, nếu ngân hàng thực sự không muốn cho vay tại lãi suất bằng hoặc thấp hơn trần lãi suất cho vay.
Thêm nữa, chẳng có gì đảm bảo rằng doanh nghiệp và người đi vay trước đây nếu được “giải cứu” sẽ tiếp tục vay thêm (vay để làm gì khi đụng vào đâu cũng thấy khó khăn), và đủ điều kiện để vay thêm (ví dụ, có tài sản thế chấp). Vì thế, nếu chỉ trông chờ vào biện pháp này thì tín dụng cũng khó có cơ mà tăng trưởng như mong muốn được. Mà như thế cũng có nghĩa là cả nền kinh tế sẽ chịu lây hậu quả.
Trên hết, chắc NHNN cũng hiểu rõ và cũng chứng kiến hiệu quả nhỏ nhoi của các biện pháp hành chính của mình, từ trần lãi suất huy động đến trần lãi suất cho vay v.v... trong khi cái giá phải trả là sự rối ren, bất an, bất tín trong dư luận, và sự phình to của bộ máy quản lý hành chính chỉ để rình rập, theo dõi, giám sát và đôn đốc thực hiện các biện pháp hành chính mà rốt cục đâu vẫn hoàn đấy.
Như vậy, trong hoàn cảnh khó khăn như hiện nay, một trong những điều cần và nên làm là giảm thiểu những hành động can thiệp mà biết chắc chắn là sẽ không mang lại mấy hiệu quả tích cực ngoài những hậu quả tiêu cực hiển nhiên.

1 comment:

  1. Một độc giả thường xuyên blog của TS.
    Xin TS dành ít thời gian cho độc giả về chống nợ xấu của chính phủ Nhật, và xin hỏi TS nếu VN xử lý nợ xấu bằng cách vay tiền của các tổ chức quốc tế thì có dẫn đến lạm phát không ?
    Rất mong TS dành thời gian cho độc giả được hiểu một cách tổng quát hơn nhé.
    Xin cảm ơn và chúc sức khỏe.

    ReplyDelete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).