Tuesday, 3 July 2012

Email của đồng chí TL trao đổi về một số vấn đề kinh tế vĩ mô


Đã lâu lâu đồng chí TL mới quay trở lại thảo luận với tớ về kinh tế vĩ mô. Cũng như thường lệ, đồng chí TL đưa ra một số câu hỏi trong khi bản thân có đưa ra bình luận và nhận xét. Xét thấy các vấn đề đồng chí TL đặt ra khá thích hợp cho hoàn cảnh hiện nay nên tớ lại mạn phép đồng chí TL để đưa những câu hỏi và bình luận của đồng chí TL lên blog này để comment. Tớ cũng phải cảm ơn đồng chí TL vì tớ có cái để mà nói.

++++++++++++++++++++++++
Đồng chí TL nói: “Theo số liệu của GSO thì CPI tháng 6 này âm 0.26% (lương thực, vật liệu xây dựng, giao thông giảm). Theo em thì headline inflation bị âm nhưng có 2 điểm đáng lưu ý là: (1) core inflation chắc là không âm, nếu tính CPI 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm ngoái thì vẫn là 12.20% như vậy cũng không hẳn là thấp (so với tháng 6 năm ngoái là 6.9%); (2) theo một số thông tin cho biết giả cả thực tế ngoài thị trường (về lương thực, đồ ăn uống...) dường như không giảm. Vì vậy, CPI giảm nhẹ chưa phản ánh điều gì quá ghê gớm cả. Về sự khác biệt giữa báo cáo của GSO đối với giá thực tế ngoài thị trường, anh có lý giải gì không ạ? Có thể là do cách lấy mẫu của GSO chưa được sát lắm phải không ạ? Mặc dù là không phản ánh được nền kinh tế rơi vào trạng thái suy giảm nhưng cũng là một dấu hiệu đáng quan tâm thêm vì em theo dõi thấy chỉ số PMI (purchasing managers' index) của HSBC và Markit thực hiện của tháng 4 là 49.3 và sang tháng 5 giảm còn 48.3 điểm cho thấy môi trường kinh doanh cũng khó khăn hơn. Nhưng em không nghĩ tình hình DN quá bi quan như nhiều thông tin và cũng hơi lo việc thực thi chính sách tiền tệ của NHNN trong 3 tháng qua. Em thấy để giải quyết vấn đề, việc cấp thiết nhất để giải quyết vấn đề là việc giải quyết hiệu quả nợ xấu của các NHTM và kết hợp với việc tái cơ cấu lại các NHTM để khơi thông dòng vốn và lành mạnh hoạt động của hệ thống NHTM chứ không phải là việc giảm mạnh lãi suất (giảm bằng biện pháp hành chính). Thị trường bị mấy lần bóp méo nên cũng khó nhận biết hơn "tín hiệu" chuẩn để đưa ra giải pháp. Anh có comments gì về nền kinh tế hiện nay và các chính sách thực hiện trong thời gian qua không ạ? Giả sử nếu CPI tiếp tục giảm trong một vài tháng tới theo anh nền kinh tế có bị rơi vào trạng thái suy giảm không ạ? Về mặt lý thuyết vĩ mô, hình như không có một tiêu chuẩn nào rõ ràng rằng giảm phát liên tục trong bao lâu thì kết luận là nền kinh tế rơi vào trạng thái suy giảm đúng không anh?

Tớ comment: Tớ đã nói nhiều lần rằng chúng ta đang quay ngược 180 độ các chính sách của chính mình vốn quyết tâm thực hiện bằng được mới chỉ cách đây mấy tháng. Điều đáng nói là sự quay ngược lại này diễn ra với mức độ gấp rút và quyết liệt/quyết tâm không hề kém, nếu không muốn nói là hơn hẳn so với sự quyết liệt và quyết tâm thực hiện những chính sách cũ. Và tớ cũng nhiều lần nói rằng tốc độ tăng trưởng như hiện nay không hề và không thể coi là một “thảm họa” – như trong con mắt của nhiều chuyên gia với chuyên vào ở Việt Nam – được. Hiện nay chúng ta mới chỉ ở giai đoạn giảm phát, tức là tốc độ tăng CPI giảm đi so với cùng kỳ năm trước. Mới một tháng (và kể cả thêm một vài tháng sau nữa, nếu có) chứng kiến CPI sụt giảm so với tháng trước (CPI tăng trưởng âm) – nhưng không phải là so với cùng kỳ năm trước như ở Việt Nam hiện nay với CPI tháng 6 năm nay vẫn cao hơn tháng 6 năm trước 6.9% - thì không thể gọi nền kinh tế Việt Nam là đang bị thiểu phát được, như người ta vẫn thuận mồm phát biểu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cần chú ý rằng hiện nay ở Việt Nam, 2 khái niệm thiểu phát và giảm phát đang được dùng rất tùy tiện, lẫn lộn với nhau, thậm chí coi đồng nghĩa với nhau.

Giảm phát hiện nay là một điều tốt nhiều hơn là xấu vì nó mang lại ổn định vĩ mô và phục hồi lòng tin nhà đầu tư, và là cái mà chúng ta phải phấn đấu cật lực cả năm trước và đầu năm nay mới đạt được. Thiểu phát có thể có hại hơn cả về mặt tương đối và tuyệt đối (so với giảm phát) vì khi có thiểu phát thì tăng trưởng GDP thường phải ở mức độ rất thấp. Nhưng điều này (tăng trưởng rất thấp) thì chưa xảy ra và khó xảy ra ở Việt Nam ít nhất trong mấy năm tới trong bối cảnh không có cơn sốc đặc biệt nào đó.

Về câu hỏi của đồng chí, giảm phát liên tục bao lâu thì kết luận là nền kinh tế suy giảm, tớ phải chỉnh lại một chút cho chuẩn trước đã. Giảm phát không nhất thiết đi kèm với “suy giảm kinh tế” (trong trường hợp này tớ thấy dùng cụm từ “suy giảm tăng trưởng” thì đúng hơn). Vì vậy, chừng nào giảm phát chưa dẫn đến thiểu phát thì chừng đó còn chưa nên lo lắng vội vã “phải làm một cái gì đó” ngay. Còn nếu khi CPI giảm liên tục trong vòng một số tháng SO VỚI CÙNG KỲ NĂM TRƯỚC (tớ không nhớ rõ lắm, 4 hay 6 tháng gì đó, theo định nghĩa) thì có thể gọi là nền kinh tế rơi vào thiểu phát. Bước vào 2012, CPI chưa có tháng nào âm so với tháng cùng kỳ của năm 2011 thì không thể nói Việt Nam đang bị thiểu phát. Còn suy giảm tăng trưởng (mà theo đồng chí gọi là kinh tế suy giảm) thì đương nhiên đã và đang xảy ra ở Việt Nam rồi, nhưng điều này với tớ chẳng có gì là lạ lùng, đáng sợ cả. Đồng chí có thấy mấy nước trên thế giới hiện nay duy trì được tốc độ tăng trưởng cao như vài năm vừa qua không? Việt Nam có phép thần thông gì mà thoát được tình trạng suy giảm này mà không phải trả giá không?

Về ý kiến của đồng chí rằng nợ xấu và tái cơ cấu ngân hàng là mấu chốt để giải quyết được suy giảm kinh tế (?), tớ nghĩ chỉ đúng một phần. Một phần (lớn) còn lại phụ thuộc vào lòng tin của nhà đầu tư, đầu cơ, và người tiêu dùng, cũng như triển vọng kinh tế trong nước và thế giới. Trong bối cảnh tăng trưởng giảm tốc, lòng tin của mọi chủ thể còn mong manh, triển vọng năm nay và các năm tới còn mù mịt thì cho dù ngân hàng có được giải phóng khỏi cục nợ xấu, nhu cầu vay vốn của bản thân các chủ thể kinh tế vẫn sẽ còn yếu. Mặt khác, bản thân ngân hàng cũng chẳng dám cho vay vì nhiều trường hợp biết chắc rằng cho vay là mất, vì tình hình tiêu thụ, sản xuất của các doanh nghiệp và người tiêu dùng không còn khả quan như trước.

Đồng chí TL nói: “Đi sâu hơn 1 chút vào vấn đề ngân hàng.  Hiện nay có ý tưởng về thành lập 1 công ty mua bán nợ quốc gia do NHNN thành lập để xử lý nợ, cũng có quan điểm về việc sử dụng bridge bank để xử lý nợ xấu. Về vấn đề này anh có quan điểm thế nào ạ? Chắc anh cũng biết thực tế hiện nay có trên 20 công ty mua bán nợ tư nhân trực thuộc các NHTM, đồng thời NHNN cũng cho phép 14 NHTM lớn trực tiếp được phép mua bán nợ của nhau theo quyết định 56/2006 của NHNN. Ngoài ra cũng có công ty mua bán nợ của Bộ Tài chính là DATC, với vốn là 2481 tỷ nữa. Trong đề án tái cơ cấu lại hệ thống NHTM cũng có đề cập đến vai trò của DATC và cho phép DATC được phát hành trái phiếu CP bảo lãnh để mua nợ xấu của NHTM. Vậy có cần thiết là phải có công ty mua bán nợ mới không? Cách xử lý thế nào là hiệu quả nhất trên thực tế là Việt Nam có 1 hệ thống sở hữu chéo giữa nhằng nhịt giữa các DNNN, DN tư nhân với nhiều ngân hàng, bản thân sở hữu chéo giữa các NHTM bây giờ cũng lớn. Hệ thống NHTM bị chi phối bởi các nhóm lợi ích và phục vụ cho các nhóm lợi ích, vô hiệu hóa các quy định tương đối chặt của hệ thống pháp luật về NH. Ở vai trò là một chuyên gia theo anh thì cái gì có lợi nhất cho Việt Nam (giảm thiểu nhất ảnh hưởng của interest group, rent seeking, crony capitalism).

Tớ comment: Thú thực là hôm nay tớ mới nghe thấy khái niệm bridge bank ở Việt Nam. Tuy vậy, về bản chất cũng chỉ là việc nhà nước đứng ra tiếp quản và quản trị một ngân hàng phá sản để nụôi và duy trì hoạt động của nó cho đến khi tìm được một người mua trong một thời hạn nhất định (2, 3 năm). Tuy nhiên, đồng chí chắc cũng không lạ gì trình độ của các cán bộ quản lý thuộc dạng công chức nhà nước ở Việt Nam ta. Cử những người này đi nắm các ngân hàng phá sản (ít nhất về mặt kỹ thuật) không khéo làm cho tình trạng các ngân hàng này còn xấu đi hơn. Cái kiểu bổ nhiệm CEO và cán bộ lãnh đạo ở đâu cũng như ở Vinalines và Tổng cục Hàng hải thì đừng hy vọng nhiều vào công cụ bank biếc này. Và về bản chất nó cũng chẳng khác gì việc NHNN bơm vốn cho các ngân hàng này và đổi lại NHNN nắm cổ phần chi phối, thậm chí là quốc hữu hóa và cử người của mình vào các vị trí chủ chốt trong ngân hàng. Việc này thì bàn mãi rồi, và cũng đã từng làm rồi chứ chưa phải là chưa làm bao giờ ở Việt Nam.

Việc thành lập công ty mua bán nợ mới trực thuộc NHNN (?) tớ nghĩ có lẽ có tác dụng chính là giải quyết mặt nguồn tiền dành cho mua nợ xấu. DATC thuộc Bộ Tài chính nên nguồn vốn phải huy động thông qua phát hành trái phiếu, và hình như chức năng của nó chỉ là mua bán nợ xấu trong khối doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước phải không? Còn một DATC tương tự nhưng thuộc NHNN sẽ có danh chính ngôn thuận để NHNN phát hành tiền cho nó, để nó sử dụng nguồn từ phát hành tiền của NHNN, và giải quyết nợ xấu của các ngân hàng. Điều khác biệt giữa DATC của NHNN với các công ty mua bán nợ xấu tư nhân hoặc của NHTM nằm ở (quy mô) nguồn vốn, phạm vi can thiệp, khả năng bị can thiệp, giật dây bởi NHNN theo ý đồ của NHNN.

Nói chung là dù bất cứ dưới hình thức gì, các công ty mua bán nợ ở Việt Nam sẽ không thoát khỏi các vấn đề đồng chí nêu (nhóm lợi ích, tham nhũng, thông đồng cánh hẩu v.v...), và vấn đề ở đây là ta biết được bao nhiêu trong quy mô và phạm vi thực sự của chúng mà thôi.


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).