Friday, 22 February 2013

Có nên phá giá VND không?


Dư luận lại nóng lên với chuyện tỷ giá. Mặc dù tớ đã viết nhiều, rất nhiều về vấn đề này nhưng xem ra các đồng chí dư luận không thèm xem, không thèm nhớ, đáng để tớ nghiêm khắc khiển trách và xem xét kỷ luật cảnh cáo!
Bài dưới đây đăng trên VEF tháng 11/2011 là bài về tỷ giá mới nhất của tớ, post lại để các đồng chí dư luận dùng như một trọng tài đối chiếu đúng sai cho cuộc tranh luận nên hay không phá giá VND. Các đồng chí lưu ý về lập luận phá giá với lạm phát, phá giá với nợ nước ngoài, phá giá với xuất nhập khẩu (cả ở bài chính và comment mà tớ trả lời bạn đọc) để mà thấy các đồng chí chuyên ra với quan chức phát ngôn phiến diện, linh tinh, sai bét.

Nói tóm lại, tớ cho rằng nên phá giá vì đã để tỷ giá ổn định quá lâu rồi và xem ra trình độ/năng lực đối phó với khủng hoảng tỷ giá ở Việt Nam vẫn chẳng có mấy tiến bộ. Nhưng cách làm thì đương nhiên như tớ nói ở phần kết luận, là đừng có nói gì mà dại, cứ lẳng lặng/tù mù mà làm, giống hệt như ý kiến của đồng chí Nguyễn Đức Độ nói ở đây (phải khâm phục đồng chí Độ này có tầm nhìn và tư duy ... giống tớ!).

----------------------------------------------------------------------------------------------

Nên đối xử như thế nào với tỷ giá USD?
Tác giả: TS. Phan Minh Ngọc
Bài đã được xuất bản.: 07/11/2011 06:00 GMT+7

 (VEF.VN) - Đến hẹn lại lên, câu chuyện tỷ giá càng về cuối năm lại càng nóng bỏng, và càng nóng bỏng hơn khi: một mặt, trước đây một thời gian Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tuyên bố tỷ giá sẽ chỉ tăng dưới 1% cho đến hết năm nay; mặt khác, cho đến đầu tháng 11 này, "quota" 1% này đã dùng gần hết.
Câu hỏi lớn nhất mà dư luận đang quan tâm về chuyện tỷ giá là liệu NHNN có giữ được cái mục tiêu này hay buộc phải "điều chỉnh" hơn thế nữa.

Đứng ở góc độ NHNN nói riêng, Chính phủ nói chung, có một số lý do quan trọng để đưa tỷ giá vào vòng kiểm soát chặt chẽ.
Tỷ giá với lạm phát

Trước hết, nếu tỷ giá biến động mạnh (thường đồng nghĩa với phá giá nội tệ, hay được "điều chỉnh" mạnh ở Việt Nam), nó sẽ châm ngòi hoặc làm gia tăng vòng xoáy lạm phát, thông qua kênh nhập khẩu, cũng như vòng xoáy chuyển đổi danh mục tài sản từ/bằng VND ra đôla.

Mặc dù, về lý thuyết, phá giá nội tệ cũng cải thiện tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, nhưng xem ra xuất khẩu của Việt Nam cho đến nay có vẻ không bị ảnh hưởng nhiều lắm bởi biến động tỷ giá VND/USD. Trong nhiều trường hợp, tác động của những yếu tố khác mới là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, ví dụ như sự gia tăng giá cả hàng hóa trên thế giới, thỏa thuận thương mại song phương và đa phương, các biện pháp hỗ trợ/trợ cấp xuất khẩu của Chính phủ, và thậm chí là sự chủ động bán hàng phá giá của một số doanh nghiệp và ngành nghề ở Việt Nam để giành giật thị trường và/hoặc giải phóng năng lực sản xuất dư thừa trong nước v.v...

Vì thế, nếu xét đến tác động vĩ mô như trên thì NHNN thường mong muốn xác lập tỷ giá VND/USD ở mức ổn định nhất có thể (về mặt danh nghĩa) hoặc chỉ biến động trong một biên độ hạn hẹp.

Tuy nhiên, cần phải hiểu sâu hơn một chút về quan hệ nhân quả giữa lạm phát và tỷ giá. Theo cách hiểu trên thì tỷ giá gây ra lạm phát và vì thể để chống lạm phát cần phải ổn định tỷ giá. Nhưng trên thực tế ở Việt Nam, đa phần áp lực đẩy tỷ giá tăng (nội tệ mất giá) là xuất phát từ lạm phát. Và lạm phát thì lại thường là kết quả trực tiếp của chính sách tiền tệ nới lỏng gây ra. Vì thế, có thể nói hành động ổn định tỷ giá để kiềm chế lạm phát như vậy về bản chất là vừa không trị đúng nguồn gốc căn bệnh lạm phát là do cung tiền tăng, lại vừa tốn kém một cách vô ích vì phải dùng quỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp bình ổn tỷ giá mà rốt cuộc vẫn phải phá giá. Việc này cũng tương tự như bệnh nhân huyết áp cao tiếp tục ăn nhiều mỡ, muối trong khi lại bỏ tiền ra để mua và dùng thuốc để hạ huyết áp.

Tỷ giá với đầu cơ tiền tệ và ổn định môi trường kinh doanh
Lý do quan trọng thứ hai để NHNN ưa chuộng một chế độ tỷ giá tương đối ổn định là nhằm bảo đảm một môi trường kinh doanh tương đối ổn định để doanh nghiệp có thể tính toán được bài toán đầu tư và lợi nhuận để yên tâm đầu tư mà không sợ phải đối mặt với những rủi ro bất trắc từ biến động tỷ giá. Tuy nhiên, thiện ý này cũng chính là con dao 2 lưỡi và là một trong những nguồn gây bất ổn cho chính sách tỷ giá của NHNN hiện nay.
Với tuyên bố giữ tỷ giá không tăng quá 1% trong năm nay của NHNN, các doanh nghiệp đương nhiên được ngầm khuyến khích đi vay bằng ngoại tệ để sản xuất kinh doanh với lợi ích nhãn tiền rõ ràng là lãi suất đi vay ngoại tệ thấp hơn hẳn rất nhiều so với VND, trong khi đáng chú ý là nhiều trong số họ có doanh thu bằng VND. Tinh trạng bất đối xứng đồng tiền (currency mismatch) như vậy sẽ gây thêm áp lực rất lớn cho NHNN trong việc cố gắng thực hiện mục tiêu ổn định tỷ giá khi thời hạn trả nợ các khoản vay ngoại tệ đang đến dồn dập vào thời điểm cuối năm.

Ngoài ra, thiện ý trên cũng nhằm mục đích sâu xa là triệt tiêu động cơ đầu cơ tiền tệ, với quan niệm rằng khi đã tuyên bố (và trên thực tế có cố gắng thực hiện) ổn định tỷ giá như vậy thì giới đầu cơ chẳng có lý do gì để kỳ vọng tỷ giá sẽ tăng vọt nay may hòng kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, vì đây thường là cuộc chiến không cân sức giữa một bên là NHNN và bên kia là thị trường, với cán cân thường nghiêng về phía thị trường, với cả một bản ghi "thành tích" đầy đủ trong quá khứ nên rốt cuộc ý đồ này cũng trở nên phản tác dụng khi chính nó (sự kìm nén tỷ giá) lại trở thành ngòi nổ cho những đợt phá giá mạnh khi NHNN không còn cách nào khác.

Tỷ giá với gánh nặng trả nợ nước ngoài
Một lý do rất quan trọng khác góp mặt vào chủ trương ổn định tỷ giá VND/USD là chuyện liên quan đến trả nợ nước ngoài. Có thể nói cho đến nay chắc chắn gần như 100% số người được hỏi sẽ cho rằng để tỷ giá tăng mạnh (tức phá giá mạnh VND) sẽ làm cho gánh nặng nợ quốc gia, nợ của doanh nghiệp bằng ngoại tệ tăng lên. Tuy nhiên, rất tiếc đây lại là một nhận định chưa đầy đủ.

Trên bề mặt thì đúng là nếu VND bị phá giá ví dụ 5%, gánh nặng nợ bằng ngoại tệ nhưng quy ra VND sẽ tăng thêm đúng 5%. Trước đây, Chính phủ và doanh nghiệp chỉ cần huy động 20 triệu VND để mua USD và trả cho mỗi 100 USD tiền vay nợ trong và ngoài nước. Nếu phá giá VND 5% thì con số VND cần để mua được mỗi 100 USD sẽ là 21 triệu. Đúng là Chính phủ và doanh nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng từ việc phá giá này bằng cách thu hẹp tương ứng lợi nhuận ròng của mình tính bằng VND (đối với doanh nghiệp) hoặc tăng thêm thâm hụt ngân sách (đối với Chính phủ).

Nhưng đây mới chỉ là một phần (nổi) của câu chuyện. Nếu giả sử VND bị áp lực phải phá giá 5% để lập lại cân bằng thương mại, nhưng NHNN kiên định không phá giá với nỗi e ngại nêu trên. Để kiên định làm được việc này, NHNN phải hoặc là dùng các biện pháp hành chính để duy trì mức tỷ giá danh nghĩa hiện thời (ví dụ bằng cách theo dõi, thanh tra và phạt các tổ chức tài chính tín dụng mua bán ngoại tệ vượt quá biên độ cho phép), và/hoặc là tung USD trong quỹ dự trữ ngoại hối của mình ra thị trường để ổn định tỷ giá hiện hành. Cách thứ nhất thì NHNN đã và đang làm, nhưng tất nhiên chỉ hữu hiệu được một thời gian rồi cũng phải theo cách thứ hai, như thực tế đã cho thấy.

Tóm lại, rốt cuộc, hao hụt quỹ dự trữ ngoại hối là cái giá trực tiếp phải trả để ổn định tỷ giá, và sâu xa hơn nữa là để tránh cho gánh nặng nợ nần bằng ngoại tệ (tính theo VND) của các doanh nghiệp và Chính phủ không tăng lên. Suy ra tiếp điều gì nữa? Doanh nghiệp thì có lợi vì tự nhiên được "bù lỗ", "bao cấp" một cách gián tiếp từ nguồn lực quốc gia. Đối với cả quốc gia, vì gánh nặng nợ của Chính phủ được đổ lên vai NHNN nên rút cục tiền chỉ chui từ túi nọ sang túi kia (ví dụ, từ NHNN sang Bộ Tài chính). Đến đây, ta có thể thấy rõ ai sẽ kêu gọi không phá giá và NHNN có nên phá giá không khi cần thiết phải làm thế.

Điều đáng lo ngại hơn là hành động can thiệp ổn định tỷ giá của NHNN không thể ở quy mô lớn và kéo dài được vì quỹ dự trữ ngoại hối nhỏ nhoi của mình. Cuối cùng thì NHNN cũng phải chấp nhận phá giá VND khi áp lực phá giá tiếp tục tăng lên. Càng o ép, càng "kiên định" với ổn định tỷ giá lâu thì mức phá giá sau này càng lớn, như thực tế minh họa. Và lúc đó thì cả doanh nghiệp và Chính phủ đều không tránh khỏi phải đối mặt với gánh nặng nợ nần lớn hơn quy ra theo VND, và cũng tức là cái giá phải trả lớn hơn từ dự trữ ngoại hối của NHNN.

Như vậy, có thể thấy sự chần chừ, e ngại phá giá VND, "điều chỉnh" VND thường xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn về vai trò của tỷ giá trong việc kiềm chế lạm phát, về mối quan hệ giữa trả nợ nước ngoài và phá giá nội tệ, cũng như về vai trò của tỷ giá với ổn định môi trường kinh doanh, triệt tiêu động cơ đầu cơ tiền tệ v.v...

Lập trường trong chính sách tỷ giá
Với nhiều lý do, nhưng đa phần không chính đáng như phân tích ở trên, có thể thấy sẽ là điều nguy hại nếu NHNN một mặt tiếp tục thi hành chính sách tiền tệ nới lỏng để hậu thuẫn tăng trưởng, một mặt tìm mọi cách để "ổn định" tỷ giá.

Nhưng giả sử nếu NHNN buộc phải tiếp tục thi hành chính sách tiền tệ nới lỏng (không nhiều thì ít) vì một áp lực nào đó. Kết cục đương nhiên là áp lực lạm phát gia tăng và áp lực phá giá nội tệ (tăng tỷ giá) cũng gia tăng. Khi đó, nếu NHNN khiên cưỡng và cố gắng một cách thái quá không thực hiện phá giá khi tình hình đòi hỏi phải phá giá thì sự ổn định (nếu có) và sự chống đỡ của NHNN trước áp lực phá giá của thị trường cũng chỉ mang tính ngắn hạn hay chỉ thành công trong ngắn hạn, để rồi khi buộc phải phá giá, hậu quả của nó lên lạm phát sẽ ở mức trầm trọng hơn do còn có sự góp mặt của tâm lý và kỳ vọng phá giá tiếp tục do NHNN đã rơi vào thế "sức cùng lực kiệt" và sẽ dễ dàng/tiếp tục bị tấn công bởi giới đầu cơ tiền tệ.

Vậy NHNN cần có sách lược "PR" với công chúng về lập trường trong chính sách ngoại hối của mình như thế nào cho thích hợp nhất trong hoàn cảnh buộc phải tăng cung tiền (kể cả như hiện nay, mặc dù chính sách tiền tệ được nhấn mạnh là "chặt chẽ" thì tốc độ tăng M2 và tín dụng vẫn là trên chục phần trăm/năm)? Trong bối cảnh nguồn dự trữ ngoại hối mỏng và luôn trên đà cạn kiệt, năng lực xử lý và khả năng đối phó với các bất ổn vĩ mô còn rất hạn chế, (và kết quả là) thói quen hay dùng đến các công cụ hành chính thay cho công cụ thị trường, cũng như thực tế trong quá khứ NHNN đã nhiều lần phải "nói một đằng, kết quả ra một nẻo", thì việc NHNN tuyên bố cam kết giữ ổn định tỷ giá (không tăng quá 1%) như vừa rồi là điều rất không nên, chí ít vì... chẳng mấy ai tin!

Để thuyết phục công luận rằng mục tiêu phá giá này (không quá 1%) là hoàn toàn có thể đạt được, NHNN phải cho thấy cung tiền hoặc là không đổi (không tăng), hoặc là giảm đi (thắt chặt tiền tệ). Vì thế, cung cách xử lý hiện nay, thường dừng lại ở việc công bố những con số thống kê nào là FDI và kiều hối là bao nhiêu, thặng dư tài khoản vốn là thế này v.v..., sẽ chẳng mang lại hiệu quả đáng kể nào. Chừng nào còn dấu hiệu của lạm phát, với CPI ở mức dương, thì chừng đó lòng tin sẽ còn rất mong manh.

Cũng có người khuyến nghị hãy tuyên bố một chủ trương phá giá dần dần (và định kỳ) để tránh cho thị trường những cú sốc lớn khi NHNN buộc phải phá giá trong trường hợp kiên định giữ tỷ giá một cách thái quá, còn các chủ thế kinh tế thì tiên liệu được trước tình hình để có những điều chỉnh chiến lược sản xuất kinh doanh cho phù hợp. Nhưng việc này cũng là một con dao 2 lưỡi vì xu hướng thị trường được bảo đảm ngầm định như vậy sẽ là mảnh đất tốt cho sự đầu cơ với kỳ vọng tỷ giá chắc chắn sẽ càng ngày càng tăng lên.

Vậy chỉ còn một giải pháp xem ra ít rủi ro hơn là NHNN hoặc không tuyên bố gì/rõ về chủ trương trong chính sách ngoại hối của mình, hoặc là vẫn tiếp tục trung thành với "chiêu" cũ: "điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường" với những cú điều chỉnh tăng giảm đột ngột và bất thường, như được dùng cho đển trước thời điểm có tuyên bố giữ cho tỷ giá không tăng quá 1%, ít nhất cũng sẽ có tác dụng một phần nào đó làm nản lòng các nhà đầu cơ vì "không biết đường nào mà lần", đồng thời làm giảm áp lực lên tỷ giá do không còn bị chịu nhiều áp lực phát sinh từ chuyện bất đối xứng đồng tiền.

________________________
Comment của bạn đọc      

Canonhoa
Tôi đề nghị Nhà Nước nên cử chuyên gia qua Campuchia học tập họ về cách quản lý và sử dụng đồng nội tệ cũng như ngoại tệ USD. Theo tôi, trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, Campuchia còn nhiều điểm thua Việt Nam nhưng cách đối xử của họ giữa đồng nội tệ (đồng Ria) với đồng ngoại tệ (USD) thật sự công bằng và tiến bộ hơn ở Việt Nam rất nhiều. Người dân Campuchia khi cầm đồng Ria họ thật sự tin tưởng và tự hào vào đồng nội tệ của mình (không thua kém đồng USD), vì họ có thể chuyển đổi dễ dàng bất kỳ lúc nào, bất cứ ở đâu trên lãnh thổ của mình. Còn ở Việt Nam, đồng VNĐ có phải là đồng tiền hạng 2 không, khi không thể lưu hành trên thị trường Quốc tế, cũng không được dễ dàng chuyển đổi thành ngoại tệ (USD) trên thị trường trong nước ?      

Minh Thu

Chào TS. Ngọc ! Bài viết cảu TS với chủ đề rất hay và rất "nóng"...; những phân tích cũng rất gần với suy nghĩ chung của xã hội hiện nay, tôi cũng rất đồng tình với quan điểm không nên có những tuyên bố mang tính " hứa hẹn" mà khả năng chưa biết có thực hiện được không (?) vì NHNN khác Cục dự trữ liên bang Mỹ, phải có năng "lực" mới phát biểu có trọng lượng được, nếu không dẽ làm rối thị trường và mất uy tín cho bản thân người lãnh đạo. Việt nam hay có những ngơời dũng cảm " phát ngôn liều" ví dụ như vị lãnh đạo Bộ y tế khoá trước khi được ôộ nhiệmdđã hùng oồn tuyên bố "trong 3 năm sẽ xoá bỏ việc một gường bệnh nằm ghép 2 đến 3 bệnh nhân" và êến nay khi về hưu rồi thì thấy phát biểu " quả đúng" vì mỗi gường bệnh bây giờ năm từ 4-5 người (!)" . Quay lại chủ đề tỷ giá theo quan điểm của tôi chúng ta xác định định hướng cơ chế thị trường thì nên để tỷ giá điều chỉnh theo cung cầu thị trường, có can thiệp nhưng có mức độ nhỏ thôi đường bóp méo nó, nên kinh tế sẽ gánh hậu qur ngay đó. Còn tôi xin phép TS. nên đọc lại bản thảo trước khi đăng chứ ví dụ : 100 USD = 21 triệu thì sai số lớn quá dẽ làm người đọc hoài nghi về tính chính xác của bài viết.
Trân trọng
Minh Thư

Trong một nền kinh tế hướng đến xuất khẩu lại được tài trợ bằng nguồn
vốn đầu tư từ nước ngoài, việc ổn định tỷ giá gần như là một bài toán
bắt buộc (hoặc ít nhất là có tiền lệ ở các nước thành công với chính
sách xuất khẩu).


Nếu suy nghĩ như vậy, thì một khi Việt Nam còn giữ định hướng sản xuất
để xuất khẩu và còn mong muốn thu hút đầu tư từ nước ngoài thì còn phải
ổn định giá trị tiền đồng.

Vấn đề đặt ra là, Việt Nam có khả năng ổn định tiền đồng hay không? và
có lợi hay không khi ổn định tiền đồng với tình hình hiện tại?

Ở câu hỏi thứ nhất, Việt Nam có khả năng ổn định tiền đồng vào thời
điểm hiện tại. Tuy nhiên, khả năng này ngày càng bị bào mòn bởi: Lạm
phát + thâm hụt thương mại + suy giảm đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân của
các vấn đề này - chính bởi việc đầu tư không hiệu quả. Vấn đề của Việt
Nam không phải là thiếu vốn mà là sử dụng vốn quá yếu kém.

Ở câu hỏi thứ hai, Nếu là một nước định hướng xuất khẩu, thì phải xuất
siêu, khi đó tỷ giá ổn định sẽ vừa khuyến khích doanh nghiệp theo đuổi
con đường xuất khẩu, vừa khuyến khích được đầu tư nước ngoài, đồng thời,
thặng dư thương mai sẽ càng củng cố cho khả năng ổn định tỷ giá.

Tuy nhiên, ở Việt Nam chúng ta thấy một câu chuyện khác, cán cân thương
mại những năm gần đây liên tục bị âm, được bù đắp bằng kiều hối và đầu
tư nước ngoài. Nếu vì lý do nào đó, nguồn ngoại tệ này suy giảm thì việc
giữ vững được cần bằng cung - cầu ngoại tệ trong nước liệu còn có thể?

Giữ tỷ giá, trong trường hợp này rõ ràng không có lợi!
Rất nhiều người đang lo lắng rằng, nếu phá giá VNĐ, sẽ có thể tạo nên
một cơn bão giá, trong lúc nhà nước đang cố gắng kiềm chế lạm phát. Điều
này chỉ đúng một phần. Việc điều chỉnh này chỉ gây ảnh hưởng đến "hàng
nhập khẩu", và một thực tế khá đau đớn là nền kinh tế của chúng ta phụ
thuộc quá lớn vào nhập khẩu, từ cây kim, sợi chỉ, cho đến phôi thép,
linh kiện... Các lĩnh vực này sẽ có một bước nhẩy vọt về giá, tuy nhiên,
đây không phải là những mặt hàng thiết yếu, vì vậy nó khó lòng có thể
đẩy lạm phát lên cao. Duy chỉ có một điều, nó sẽ ảnh hưởng mạnh đến các
doanh nghiệp nhập khẩu (để tiêu dùng hoặc sản xuất). Cần có một bước đệm
điều chỉnh để bảo vệ các doanh nghiệp này.


Vậy bài toán đặt ra là điều chỉnh tỷ giá khi nào và như thế nào? Xin đề xuất về 2 vấn đề này:
- Để cho các doanh nghiệp 6 tháng chuẩn bị cho một cú sốc về tỷ giá. (Trả hết nợ bằng $ và điều chỉnh kế hoạch sản xuất).

- Hỗ trợ hết mức có thể để các doanh nghiệp trả nợ với tỷ giá cũ, có
thể điều này sẽ làm hao mòn đáng kể dự trữ của VN, nhưng đây có lẽ là
biện pháp hỗ trợ cần thiết.

- Điều chỉnh tỷ giá thành từng đợt, tuy nhiên rõ ràng, dứt khoát và kiên quyết. Chấp nhận những đau đớn (đã dự báo trước).

- Sự xáo trộn lớn trong các doanh nghiệp xuất khẩu, sẽ là cơ hội để tái
cơ cấu mạnh mẽ nền kinh tế. Việc tận dụng cơ hội này như thế nào, sẽ
quyết định tương lai của nền kinh tế.

Có thể với nhiều người, đây là một biện pháp "hạ cánh cứng" đối với
VNĐ và với nhiều doanh nghiệp, nhưng theo tôi, nó là cần thiết để giảm
gánh nặng bao cấp tỷ giá của ngân sách, mà khoảng cách đã quá rộng để có
thể "vá víu được"!
    

Quochoi Nguyen
Đồng tiền VNĐ là đồng tiền chưa có giá giá trị chuyển đổi quốc tế, vì vậy nó chỉ hoạt động trong phạm vi hẹp là thị trường VN, giá trị của nó lẽ ra phải phản ánh được quan hệ giá trị nội tại của VN, sau đó mới đến mối quan hệ với USD là quan hệ ngoại lai. Lẽ ra phải xem xét kỹ quan hệ giá trị nội tại , sau đó mới tính đến ngoại lai, thì bài viết này và suy nghi chung của các nhà quản lý là xét quan hệ ngoại lai để tính việc phá giá bao nhiêu là tốt ! Thật là buồn và buồn cười. Họ coi giá trị lao động của cả xã hội VN như trò chơi trên bàn cuả họ, nếu như vậy thì chẳng bao giờ sờ đến được bản chất sự vật đang hiện hữu là gì. Không bao giờ có ai hỏi câu hỏi là : tại sao cứ phải phá giá VNĐ ? trong khi bản thân USD đang phá giá ngay trong thị trường Mỹ, và vì vậy mất giá so với các đồng tiền khác là dĩ nhiên, tại sao nó cứ phải lên giá so với VNĐ ? Một sự thật không bao giờ hay đổi là : giá trị thực của đồng tiền là hiện vật vật chất, là hàng hóa được trao đổi ngang giá và do năng suất lao động xã hội quyết định, ở đây NSLĐ XH trong phạm vi hẹp là quôc gia có đồng tiền đó. NSLĐ của nền SX VN không quá thấp , nhưng do quản lý vĩ mô không tốt và chi tiêu công quá mức không hiệu quả lâu ngày, nên NSLĐ XH bị kéo thấp xuống, do đó VNĐ mất giá trong thị trường nội tệ là tất yếu, nhưng so với USD thì chưa chắc đã mất giá như cách mà VN đã làm trước đây, đó là cách làm duy ý chí , không trên cơ sở nào cả.
     
moclan

Tác giả phân tích rất hay, chỉ tiếc đoạn cuối thì ... hơi đuối. Quan trọng nhất là khuyến nghị để nhà nước nên làm gì thì lại ko rõ, tác giả còn e ngại điều gì chăng?

Tác giả đã đề cập khá toàn diện và dễ hiểu một vấn đề phức tạp và chuyên sâu. Mong các nhà quản lý tiền tệ của VN đọc được bài báo này và có những cân nhắc phù hợp.
Về giải pháp, tôi nhất trí với những phân tích của tác giả để có thể kết luận rằng VN nên thả nổi USD như các ngoại tệ khác. Như vậy đồng USD sẽ có lên có xuống (như các đồng ngoại tệ khác) chứ ko chỉ có lên như bao lâu nay, đồng thời cho phép mua bán USD tự do qua ngân hàng theo đúng giá thị trường, như vậy sẽ ko còn chợ đen và giảm tâm lý tích trữ đôla của người dân. Lúc này tỷ giá sẽ phụ thuộc vào cung cầu của thị trường, thường căng thẳng ở một số thời điểm nhất định trong năm, NHNN có thể can thiệp bằng cách: tăng mua dự trữ khi giá xuống và bán khi giá lên: vừa có lợi nhuận vừa góp phần bình ổn thị trường. Ngoài ra tuỳ thuộc tình hình có thể áp dụng các biện pháp khác như áp trần lãi suất đôla thấp đồng thời với trần tín dụng đôla khi lãi suất VND có sự chênh lệch đáng kể như hiện nay. Rồi tăng dự trữ cả euro và khuyến khích thanh toán XNK bằng euro ở khu vực này...
    

Sannamphat 2 phản hồi đã được thu gọn lại Thu gọn lạiExpand
Việt Nam đang theo đuổi chính sách đồng tiền mạnh?
vì cớ gì khi Việt Nam lạm phát khoảng 20%/năm còn Mỹ lạm phát khoảng 2%/năm mà tỷ giá VND/USD chỉ tăng khoảng 2-3%/năm, như vậy có phải VN đang theo đuổi chính sách đồng tiền mạnh.


để dễ hiểu 1 doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu có giá vốn hàng tương đương 100usd vào đầu năm là 2trVND và xuất khẩu với giá là 110USD, cuối năm do lạm phát 20% nên giá vốn hàng là 2,4trVND cho sản phẩm, quy đổi tỷ giá VND/USD tăng 5% thì khi đó giá vốn hàng tính theo USD là 114,29usd trong khi với mức lạm phát của Mỹ chỉ là 2% thì giá bán chấp nhận được chỉ là 112,2usd vậy phải chăng đồng tiền VN đang mạnh lên so với USD?

do đó tôi hy vọng NHNN sẽ có chính sách hợp lý cho vấn đề tỷ giá

Camautown

Đầu năm vốn bán món hàng 2tr, cuối năm lạm phát tăng 20% + 5% quy đổi VND/USD =2,52 tr trừ lạm phát của Mỹ 2% =2,469tr vậy thì VND bị thiệt hại 469,000 đồng trên cùng một món hàng rồi làm sao VND mạnh lên được?
  
Phanminhngoc 2 phản hồi đã được thu gọn lại Thu gọn lạiExpand
Xin cảm ơn độc giả đã đọc và phản hồi. Xin được nói thêm một chút về các ý kiến phản hồi.

@ Canonhoa: Thực ra thì tôi vẫn ủng hộ chuyện VND là đồng tiền duy nhất được chấp nhận trong lưu thông và thanh toán ở Việt Nam, nhưng phải là sự chấp nhận một cách tự nguyện bởi mọi tầng lớp dân cư. Sự chấp nhận tự nguyện này là kết quả của lòng tin mạnh vào VND, đến lượt mình là kết quả của lạm phát thấp v.v…

@ Minh Thư: Rất cám ơn bạn đã chỉ ra sai sót tính toán này. Quả thực khi bạn chỉ ra rồi tôi mới phát hiện ra. Tôi sẽ cẩn thận hơn khi đọc xét lại bản thảo trước khi gửi đăng những lần sau.

@ Quochoi Nguyen: Dường như bạn coi nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế đóng, không có xuất nhập khẩu và trao đổi vốn với nền kinh tế thế giới? Nếu câu trả lời của bạn là không thì bạn đã có câu trả lời cho vấn đề bạn đặt ra rồi đấy.
USD mất giá so với các đồng tiền khác nhưng VND mất giá so với USD thì không có gì là lạ lùng, khó hiểu. Nếu so với các đồng tiền khác (lên giá so với USD), VND cũng mất giá. Chừng nào lạm phát ở Việt Nam còn cao hơn ở Mỹ (và các nước có đồng tiền lên giá so với USD) thì chừng đó còn áp lực phá giá, và sớm muộn cũng phải phá giá.

@ Sannamphat và Camautown: Nếu lạm phát ở Việt Nam cao hơn ở Mỹ và tỷ giá danh nghĩa VND/USD chỉ được điều chỉnh tăng lên (phá giá) ở mức độ nhỏ thì VND lên giá thực tế so với đôla (real appreciation of VND), và do đó hàng hóa có thể trao đổi mậu dịch (tradables) trở nên đắt hơn ở Việt Nam so với Mỹ, ảnh hưởng tiêu cực đến tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam, từ đó làm giảm xuất khẩu của Việt Nam.

@ Lưu Ngọc Long: Đối với nền kinh tế hướng xuất khẩu thì thực ra việc duy trì một đồng nội tệ yếu (phá giá thường xuyên để làm yếu đồng tiền) là điều có lợi cho cả quốc gia lẫn cho nhà đầu tư nước ngoài (xem thêm phần trả lời cho Sannamphat). Việc duy trì ổn định tỷ giá, đặc biệt khi chênh lệch lạm phát giữa trong nước và quốc tế lớn, là điều bất lợi cho xuất khẩu.
Về giải pháp của bạn, tôi không dám bình luận gì. Chỉ cảm giác rằng không cần phải làm đến mức độ như vậy nếu chỉ đơn thuần là chuyện phá giá. Cũng lưu ý thêm rằng phá giá là điều tốt cho doanh nghiệp xuất khẩu nên có lẽ không chính xác nếu nói: “Sự xáo trộn lớn trong các doanh nghiệp xuất khẩu…”

@ Moclan: Phần sau của bài chỉ đề cập đến cách tuyên bố lập trường trong chính sách tỷ giá của NHNN với giả định như nêu trong bài, chứ không có ý định nêu cụ thể những giải pháp NHNN cần làm gì (ví dụ, như của Lưu Ngọc Long). Nhưng có lẽ từ gợi ý của bạn, tôi sẽ cố gắng nghĩ và viết cái gì đó về chuyện này sau.
Trân trọng
Phan Minh Ngọc
  
Gửi TS. Ngọc!
Xin làm rõ thêm một chút về việc phá giá ảnh hưởng đến các doanh nghiệp xuất khẩu như thế nào:
- Với các doanh nghiệp xuất khẩu mà nguyên, nhiên vật liệu đều có nguồn gốc trong nước, thì phá giá VNĐ sẽ có lợi.
- Tuy nhiên, một lực lượng không nhỏ các doanh nghiệp xuất khẩu của VN hiện nay lại đi ngập nguyên vật liệu nước ngoài để sản xuất. Vì vậy khi tỷ giá tăng thì doanh nghiệp có thể giảm giá phần "gia công" trên sản phẩm xuất đi, tuy nhiên lại phải tăng giá phần nguyên vật liệu đầu vào. Vì vậy giá thành tổng cộng chưa chắc đã giảm được.
Với suy nghĩ như trên, nên tôi nghĩ rằng sẽ có việc xáo trộn trong cơ cấu doanh nghiệp xuất khẩu, tìm cách tăng tỷ lệ nội địa hóa hoặc tìm kiếm các nguồn nguyên phụ liệu rẻ hơn. Không loại trừ, trong số đó có nhiều ngành chưa chắc đã tiếp tục cạnh tranh được!
    

Phanminhngoc

Gửi bạn Lưu Ngọc Long: Có lẽ không chỉ mình bạn mà rất nhiều người khác cũng suy nghĩ rằng vì xuất khẩu của Việt Nam đa phần là gia công, phụ thuộc nặng nề vào nguyên vật liệu nhập khẩu nên phá giá VND cũng đồng thời làm tăng chi phí đầu vào cho doanh nghiệp xuất khẩu và vì thế chẳng có lợi ích gì cho họ, thậm chí là ngược lại.Tuy nhiên, tôi thì nghĩ khác một chút. Giả sử giá xuất khẩu mặt hàng nào đó của Việt Nam là 100 USD/cái. Giả sử nguyên vật liệu nhập về để sản xuất hàng đó là 90 USD/cái. Giả sử tiếp VND bị phá giá từ 20.000 đồng/USD lên thành 21.000 đồng/USD, đồng thời giả sử rằng giá bán của hàng đó và giá nguyên vật liệu sản xuất hàng đó trên thị trường quốc tế (thị trường xuất khẩu) là không đổi, vẫn tương ứng là 100 USD và 90 USD, sau khi phá giá VND. Lúc này, doanh nghiệp xuất khẩu và thu về được 100 x 21.000 = 2,1 triệu VND; tức là 100.000 VND lớn hơn so với trước khi phá giá. Mặt khác, chi phí nguyên vật liệu sau khi phá giá tăng lên 90 x (21.000 – 20.000) = 90.000 VND. So với mức chênh 100.000 VND doanh thu nhờ tăng tỷ giá, mức tăng chi phí nguyên vật liệu này vẫn nhỏ hơn. Suy ra là phá giá thì doanh nghiệp xuất khẩu vẫn có lợi hơn.Trường hợp bạn nêu ra chỉ xảy ra khi giá cả nguyên vật liệu thế giới tăng mạnh hơn giá bán hàng hóa làm từ những nguyên liệu đó. Điều này quả thật cũng đôi lúc xảy ra, ví dụ trong ngành thép, khi giá của than cốc và quặng sắt tăng chóng măt trong nửa đầu năm nay vì lũ lụt ở Úc trong khi giá thép quốc tế thì trì trệ bởi cầu yếu. Nhưng những trường hợp này là khác với trường hợp mà chúng ta đang bàn đến.Trân trọng
Phan Minh Ngọc

Tuesday, 5 February 2013

Cần nhìn nhận lại chính sách tăng trưởng hiện nay

(Bài viết chơi, chẳng để đăng ở đâu cả)

Bất chấp nền kinh tế kết thúc năm 2012 với những kết quả được ca ngợi là thành công, Việt Nam vẫn phải đang đối mặt với thâm hụt ngân sách đáng kể, nợ nước ngoài tiếp tục tăng, đầu tư giảm sút, và VND thậm chí còn lên giá so với USD (kể cả danh nghĩa) trong khi lạm phát vẫn ở mức cao, mặc dù đã giảm mạnh so với năm 2011.
Ở cấp độ vi mô, các doanh nghiệp Việt Nam được/tự báo cáo những khó khăn chồng chất như lãi suất đi vay vẫn ở mức cao quá sức chịu đựng của doanh nghiệp, trong khi tồn kho tiếp tục ở mức cao và nhu cầu nước ngoài không mấy khả quan trong cơn suy thoái toàn cầu, đã đẩy nhiều doanh nghiệp đến bước đường cùng.

Trong bối cảnh vĩ mô và vi mô như trên, Việt Nam vẫn tham vọng đặt ra mục tiêu tăng trưởng lớn hơn trong năm 2013 với lạm phát thấp hơn. Tiếc là, căn cứ vào những phát biểu của các quan chức liên đới, dường như những mục tiêu này mang tính duy ý chí, mang ý đồ chính trị nhiều hơn là có cơ sở thực tế. Thay vì nhìn nhận và xác định rõ đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân là động cơ tăng trưởng bền vững, và cần tập trung vào kích thích tăng trưởng đầu tư tư nhân thông qua cải thiện thị trường và môi trường kinh doanh thì Chính phủ lại tiếp tục lệ thuộc vào chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng để đạt được mục đích tham vọng và mâu thuẫn này.
Tăng trưởng tương đối nhanh của Việt Nam trong nhiều năm qua vốn đạt được nhờ vào sự can thiệp sâu rộng của nhà nước, nhờ vào sự nới lỏng quá mức của chính sách tiền tệ và chi tiêu công. Nhưng sự tăng trưởng này đi kèm với cái giá phải trả là các vấn đề mang tính cơ cấu ngày càng trầm trọng hơn, bao gồm tính bất hiệu quả của nền kinh tế (thể hiện ở tỷ trọng đầu tư trên GDP lớn), nợ công của chính quyền trung ương và địa phương tăng nhanh, tỷ lệ nợ xấu cao trong hệ thống ngân hàng, sự chèn lấn đầu tư tư nhân bởi đầu tư công, tín hiệu thị trường trong việc phân bổ các nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế bị bóp méo nhờ các biện pháp ưu đãi, trợ giá, trợ cấp, và bàn tay can thiệp ngày càng thô bạo và quyết liệt của nhà nước vào nhiều mặt của nền kinh tế.

Mặc dù cuối cùng nhà nước cũng đã xác định được “tái cấu trúc” nền kinh tế là điều sống còn cho sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới, nhưng những biện pháp cải cách thể chế có ảnh hưởng đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân để biến khu vực này thành động lực tăng trưởng xem ra vẫn còn hời hợt, hình thức. Trọng tâm tái cấu trúc nền kinh tế được tập trung vào 3 trụ cột, doanh nghiệp nhà nước (DNNN), đầu tư công, và hệ thống ngân hàng. Nhưng nhìn chung, thực chất “tái cấu trúc” ở đây chủ yếu được hiểu khá đơn giản và ấu trĩ là sự sắp xếp lại mang tính cơ học, bỏ cái này, sát nhập cái kia. DNNN vẫn đã và đang được lăm le tiếp tục coi là xương sống của, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, và mọi biện pháp “tái cấu trúc”, nếu có, chỉ cốt nhằm củng cố được vai trò này, và tất nhiên là gây tổn hại cho khu vực kinh tế tư nhân.
Công bằng mà nói, “tái cấu trúc” DNNN trước đây và (lặp lại) gần đây cũng bao gồm một yếu tố tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Đó là việc cổ phần hóa DNNN, biến chúng thành doanh nghiệp mà nhà nước chỉ sở hữu một phần. Nhưng vì nhiều lý do nên quá trình cổ phần hóa đã và đang diễn ra rất chậm chạp với, và góp phần dẫn đến, nhiều nhiệm vụ dang dở, trong đó có việc giải quyết mối liên hệ nhằng nhịt và quyền lợi đan xen giữa nhà nước và DNNN, sự độc quyền, sự lũng đoạn của các nhóm lợi ích, tính phi cạnh tranh của DNNN, nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp, cải cách tài chính và luật lệ doanh nghiệp, cải cách hệ thống luật pháp và thực thi luật pháp vốn là điều thiết yếu cho một nền kinh tế thị trường hoạt động trơn tru.

Các nhóm lợi ích, phi đối xứng thông tin, lạm quyền, coi thường pháp luật vẫn còn tràn lan trong nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng tiêu cực thêm nữa đến sự hoạt động của nền kinh tế thị trường và các quyết định của Chính phủ cũng như chi tiêu công.
Để tiếp tục con đường tăng trưởng một cách bền vững, Việt Nam cần phải thiết lập một khuôn khổ thể chế mang tính thị trường, mang lại cơ hội bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực tài chính và kỹ thuật cho các doanh nghiệp tư nhân như đối với các DNNN, tạo dựng một nền văn hóa khuyến khích và tôn trọng kinh thương. Song song đó, DNNN cần phải được rút khỏi càng nhiều càng tốt từ các lĩnh vực lẽ ra mang tính cạnh tranh nhưng lại thuộc độc quyền của chúng (kể cả các lĩnh vực dịch vụ). Mặc dù bước đầu đã có chủ trương giảm sự lũng đoạn của DNNN trong các lĩnh vực của nền kinh tế nhưng trên thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều rào cản hạn chế đầu tư tư nhân thâm nhập vào các lĩnh vực độc quyền của DNNN. Do đó, một trong những chính sách cần cho thời gian này và sắp tới là thúc đẩy vốn tư nhân tham gia sâu hơn, rộng hơn vào quá trình tái cấu trúc DNNN, đồng nghĩa với việc chấp nhận đánh mất vai trò “chủ đạo” của DNNN trong nền kinh tế  – một cải cách quan trọng về mặt nhận thức và tư tưởng mà chính quyền dường như đang cố gắng né tránh. Chính sách này cần thực hiện cả trong lĩnh vực ngân hàng, nơi cũng bị chi phối bởi các ngân hàng quốc doanh, và là nơi mà, rất tiếc, công cuộc “tái cơ cấu” lại đang đi ngược lại, với việc hình thành các ngân hàng quốc doanh lớn hơn nhiều, mang tầm vóc khu vực và thế giới về quy mô.

Saturday, 2 February 2013

Năm mới thắng lợi mới! (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=271497

08:50 | 02/02/2013
Chúng ta bắt đầu bài viết này bàn về niềm tin của công chúng vào Chính phủ với khẩu hiệu trên, vốn đã và đang hiện diện ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam mỗi dịp Tết đến và hầu như mỗi người Việt đều ít nhiều nhìn thấy và nhớ đến. Có thể nói, khẩu hiệu trên không đơn thuần nhằm (tự) động viên và khích lệ tinh thần người dân mà còn thể hiện một lòng tin phần nhiều mang tính tín ngưỡng của người Việt rằng những điều tốt đẹp hơn luôn đợi chờ họ ở mỗi ngưỡng cửa mới của thời gian.

Nguồn: tinkinhte.vn
Cũng như mọi năm, Chính phủ đã đặt tin tưởng, quyết tâm, và phấn đấu để bức tranh KT - XH năm 2013 này sáng sủa hơn năm 2012, mà cụ thể trong đó có các mục tiêu (khá mâu thuẫn với nhau, ít nhất trong ngắn hạn) như kinh tế tăng trưởng nhanh hơn với ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc hơn (lạm phát thấp hơn). Không chỉ vậy, thông qua các công cụ tuyên truyền chính thống, Chính phủ đang dốc sức truyền niềm tin này đến mỗi người dân và cả giới chức nhằm tạo sự đồng lòng nhất trí hướng đến một năm mới với hy vọng là những thắng lợi mới về KT - XH. Hẳn nhiên, truyền thông chính thống luôn nhấn mạnh khả năng và quyết tâm của Chính phủ nhằm/có thể đạt được các mục tiêu tham vọng hơn và có phần mâu thuẫn nói trên, chứ đó không phải chỉ là một niềm tin mang nhiều hơi hướng tín ngưỡng theo kiểu “Năm mới thắng lợi mới!”.
 
Sau những vụ việc tham nhũng tràn lan, yếu kém trong điều hành nền kinh tế của Chính phủ, và sự đi xuống về chất lượng cuộc sống của một bộ phận dân chúng, đặc biệt những người làm công ăn lương, có nhiều người cho rằng niềm tin của công chúng vào bản thân Chính phủ, vào khả năng điều hành của Chính phủ đã không còn nữa.
 
Tuy vậy, từ những cuộc tiếp xúc của người viết với nhiều đối tượng trong xã hội, có thể rút ra một điều là lòng tin của ít nhất là một bộ phận lớn dân chúng vào Chính phủ tuy đã trải qua nhiều sóng gió nhưng vẫn còn đó, và rất lớn. Điều này có lẽ có được là nhờ vào công tác truyền thông đủ mọi cấp theo các định hướng thống nhất của chính quyền từ Trung ương đến địa phương.
 
Trong các cuộc tiếp xúc với giới chức, và họ không nhất thiết phải nói theo “định hướng”, nhiều quan chức khi được hỏi về triển vọng KT - XH đã đưa ra những dự đoán không chênh lệch là bao so với những dự đoán chính thức của Chính phủ. Thêm một ví dụ sinh động nữa là cách đây không lâu, một bài viết của tác giả gửi cho một tờ báo lớn đã bị từ chối đăng vì trong bài viết, tác giả đã nêu lo ngại về lạm phát cao có thể hiện diện trong năm 2013. Lý do bị từ chối, theo Tổng biên tập của tờ báo này, là vì chuyện đó (lạm phát cao) không thể xảy ra bởi Chính phủ đã xác định ổn định kinh tế vĩ mô (trong đó có kiềm chế lạm phát) là ưu tiên hàng đầu, như năm qua. Tuy tác giả có phản biện lại rằng xác định như vậy, đặt quyết tâm như vậy nhưng thực hiện được hay không là chuyện hoàn toàn khác, nhưng, tất nhiên, sự phản biện này là vô ích khi vấp phải bức tường của niềm tin mà vị Tổng biên tập này đã đặt vào các chính sách của Chính phủ. Tất nhiên, ở đây ta cũng phải loại trừ khả năng vị này không muốn/dám công khai đi chệch khỏi định hướng chính thống vì e ngại hậu quả!
 
Ngay cả các tổ chức nước ngoài, những nơi mà vấn đề “phải nói theo định hướng” không mấy khi được đặt ra, thông thường ta sẽ thấy có một vài nhận xét, khuyến cáo này kia nhưng rốt cuộc thì họ cũng có những dự đoán và nhận định không quá khác biệt với của Chính phủ Việt Nam, chẳng hạn tăng trưởng GDP thì khoảng 5,3% - 5,6% so với mục tiêu 5,5% của Chính phủ, còn lạm phát thì biến thiên trong khoảng 6,2% - 8% so với 6% - 7% của Chính phủ. Cần lưu ý rằng thông thường các con số dự báo của các tổ chức nước ngoài bao giờ cũng ở mức thận trọng hơn so với của Chính phủ, đơn giản vì dự đoán trật theo hướng xấu hơn còn đỡ “tệ” hơn là theo hướng tốt hơn so với thực tế.
 
Đối với các tổ chức kinh tế, xã hội phi chính phủ, chẳng hạn giới ngân hàng thương mại, nhận định của những cán bộ mà người viết tiếp xúc cũng không khác là mấy khi được hỏi về dự đoán triển vọng kinh tế vĩ mô năm nay. Đương nhiên, có thể thấy rõ, và đôi khi bản thân họ cũng nói rõ, là các nhận định và dự đoán của họ phần lớn dựa theo những gì Chính phủ công bố.
 
Còn đối với người dân thường, những người làm công ăn lương, hưu trí, lao động phổ thông thì niềm tin ở lại với họ dễ dàng và bám rễ sâu đôi khi đơn giản chỉ vì những câu nói, hành động nhỏ của một vài quan chức Chính phủ nào đó, đánh trúng và xoa dịu được nỗi bức xúc của mình (mà không nhất thiết phải thành hiện thực tốt đẹp hơn). Không lâu trước đây, Bộ trưởng Tài chính đã ghi điểm ngoạn mục trong đại bộ phận dân chúng với những phát ngôn “để đời” đại loại như Chính phủ không thể hành động vì quyền lợi của một số ít doanh nghiệp mà phải vì quyền lợi của dân chúng cả nước, khi ông nói về điều hành giá xăng dầu. Cho đến nay, mặc dù tính minh bạch và thích đáng của giá xăng dầu, cũng như nhiều vấn đề nổi cộm khác có liên quan ở Việt Nam vẫn còn là một dấu hỏi to tướng, nhiều người dân vẫn “sướng” và vẫn nhắc đến những câu nói tương tự cứ như thể chúng là một mẫu mực cho việc quan chức nhà nước làm thế nào để gây dựng và gìn giữ thành công lòng tin của dân chúng. Đấy là chưa kể những sự kiện mang “tầm vóc” lớn hơn như việc Thủ tướng công khai nhận lỗi và xin lỗi trước quốc dân về sự điều hành yếu kém của Chính phủ. Tuy mới chỉ là xin lỗi nhưng nó đã làm cho nhiều người thấy hồ hởi, lạc quan, tin tưởng hơn, thậm chí là vô cùng cảm động, đơn giản vì đó là một sự kiện vô tiền khoáng hậu từ một quan chức hàng đầu của Chính phủ. Có thể không nói quá rằng uy tín của Thủ tướng nói riêng và Chính phủ nói chung đã tăng vọt sau lời xin lỗi này.
 
Nói lan man như trên để thấy rằng dù có nhiều sai phạm, yếu kém, thất bại và lúng túng trong điều hành nền kinh tế, niềm tin của dân chúng vào Chính phủ ở Việt Nam không phải là điều quá xa xỉ, khó gây dựng, duy trì và phát triển, đặc biệt trong bối cảnh công tác thông tin tuyên truyền theo định hướng đã và đang phát huy tác dụng to lớn. Một điều đáng mừng cho Chính phủ là một bộ phận lớn công chúng vẫn còn tin tưởng vào khả năng Chính phủ sẽ tự sửa đổi để làm trong sạch và hoàn thiện mình, khả năng lèo lái nền kinh tế của họ đưa Việt Nam thoát khỏi những khó khăn hiện tại để hướng đến một tương lai không xa tốt đẹp hơn.
 
Nhưng cái gì cũng có giới hạn của nó! Đành rằng niềm tin vẫn còn đó trong một bộ phận lớn công chúng trong một xã hội mà thông tin chính thống được quán triệt định hướng từ trên xuống dưới và bao trùm rộng khắp, nhưng điều này không có nghĩa là niềm tin sẽ là vô điều kiện, là vĩnh hằng theo kiểu tín ngưỡng và đức tin. Nếu kết quả thực tế không đúng như tuyên bố, như mục tiêu của Chính phủ, hoặc, đơn giản hơn, nếu người dân nhận thấy rằng những tuyên bố và mục tiêu của Chính phủ chỉ là theo kiểu “Năm mới thắng lợi mới!”, thì cho dù có được định hướng cách gì đi chăng nữa, một kết cục không tránh khỏi sẽ là niềm tin sẽ sứt mẻ hoặc bay đi ở một bộ phận công chúng vốn đã đặt niềm tin vào Chính phủ trước đó. Quá trình này diễn ra có thể ngắn, có thể dài, nhưng chắc chắn rằng cho đến một lúc nào đó niềm tin quả thật trở thành điều xa xỉ trong xã hội. Đương nhiên, lúc này hậu quả sẽ ra sao là điều có thể tiên đoán được.
 
Vậy, Chính phủ nên làm gì để tiếp tục duy trì và cải thiện niềm tin của công chúng? Chắc chắn đó không phải là lạm dụng công tác tuyên truyền (thêm nữa). Từ những sự kiện như việc xin lỗi công khai của Thủ tướng, ta có thể thấy rằng ít nhất thì sự minh bạch, dám nhìn vào sự thật và thừa nhận sự thật sẽ làm phục hồi hoặc gây dựng thêm đáng kể niềm tin trong công chúng. Tất nhiên là nếu kết quả thực tế thực sự đi đôi với “xin hứa”, “phấn đấu” và “quyết tâm” thì khỏi phải nói thêm. Nhưng cần nhấn mạnh ở đây kết quả thực tế phải là thực tế, chứ không phải là thực tế nhưng do... định hướng! Vì, như ai đó đã nói: “Cây đời vẫn mãi xanh tươi”.
 
Và rất mong “Năm mới thắng lợi mới!” sẽ thành hiện thực, chứ không chỉ là một niềm tin chập chờn, ở Việt Nam trong năm 2013 này!

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).