Sunday, 19 January 2014

Động lực tăng trưởng: Rõ khái niệm để đúng phương hướng (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 19/1/2014)

http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2014/01/1079259/dong-luc-tang-truong-ro-khai-niem-de-dung-phuong-huong/

Gần đây, khi nhận xét về nền kinh tế Việt Nam năm qua, một số tác giả cho rằng trong 4 động cơ tăng trưởng (kinh tế) thì có tới 3 động cơ “nội” (gồm khu vực kinh tế nhà nước, khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước và nông nghiệp) đang trục trặc; chỉ có một động cơ “ngoại” (khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI) đang chạy tốt.

Một số tác giả khác thì kể thêm cả yếu tố tài nguyên như là một động lực tăng trưởng khác nữa, ngoài yếu tố vốn, lao động, và công nghệ.

Một số khác nữa thì chỉ ra năng suất nhân tố tổng hợp như là một động lực tăng trưởng.

Thực ra, ngoài vốn, lao động, những cái gọi là “động lực tăng trưởng” như trên không phải là động lực tăng trưởng kinh tế theo đúng nghĩa của nó, theo người viết.

Đối với một cơ thể con người thì nguồn động lực để con người tồn tại và lớn lên chính là năng lượng mang lại từ sự kết hợp giữa thức ăn, nước uống và không khí, chứ không phải là cách/kênh để nạp những năng lượng này vào cơ thể con người.

Cũng tương tự như vậy, năng lượng cho một nền kinh tế tồn tại và vận hành, tăng trưởng được (tức lớn lên được) đến từ sự kết hợp của 3 yếu tố vốn, nhân lực và công nghệ/chat xám.

Nhân lực - một trong 3 yếu tố góp phần làm tồn tại và tạo ra tăng trưởng kinh tế

Đất đai và tài nguyên tuy có quan trọng nhưng chỉ với tư cách là công cụ để giúp kết hợp 3 yếu tố này với nhau, hoặc là đối tượng của việc sử dụng 3 yếu tố này.

Đất đai và tài nguyên sẽ là không có giá trị nếu không có bàn tay con người tác động vào (khai thác, sử dụng). Nói cách khác, không có nhân lực và vốn cùng với công nghệ tác động đến thì đất đai và tài nguyên mãi vẫn chỉ là đất đai và tài nguyên, vẫn nằm nguyên đó, không đóng góp gì vào quá trình tạo ra sản phẩm và dịch vụ, và do đó làm gia tăng tổng sản lượng nền kinh tế.

Minh chứng thêm nữa, có những quốc gia nghèo kiệt về đất đai và tài nguyên nhưng vẫn tăng trưởng, vẫn giàu có, khi nền kinh tế của họ không dựa vào những ngành công nghiệp “đào bới”. Trong khi có những quốc gia khác ngồi trên đống tài nguyên với đất đai mênh mông mà nghèo vẫn hoàn nghèo, lạc hậu.

Xét từng vùng, từng quốc gia riêng biệt thì vốn, nhân lực và chất xám là đủ để họ có trong tay mọi yếu tố sản xuất và dịch vụ; những gì thiếu/không có thì có thể mua hoặc thuê.

Còn nói về những cái gọi là “động lực tăng trưởng” như FDI, khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân và nông nghiệp, e rằng càng có sự nhầm lẫn về khái niệm. Những cái này chẳng qua chỉ là công cụ, hình thức, hoặc kênh dẫn để phối hợp vốn, lao động và công nghệ với nhau tạo ra sản phẩm và dịch vụ cho nền kinh tế.

Cũng giống một cơ thể con người, nạp năng lượng vào người có thể qua đường miệng, đường mũi hoặc đường máu v.v…, nhưng dù nạp bằng cách nào thì chúng cũng chỉ là một cách/kênh đưa năng lượng (thực phẩm, nước, oxy) vào người để cơ thể hoạt động được, chứ bản thân những cách/kênh nạp này không phải là nguồn năng lượng, động lực của con người.

Đối với cái gọi là “năng suất nhân tố tổng hợp” (tiếng Anh là “total factor productivity”, viết tắt là TFP), thực ra, về khái niệm, nó là một “dư số” trong một hàm số mà vế trái là sản lượng kinh tế (Y), còn vế phải là vốn (K) và lao động (L).

Ở hàm số này, khi K và/hoặc L tăng lên thì Y cũng tăng lên, nhưng thường thường là không tăng tương ứng, và vì thế yếu tố TFP được đưa vào để phản ánh phần Y tăng lên không do K và hoặc L tăng lên.

Như thế có thể thấy TFP bao hàm nhiều thứ không đo đếm được; nó có thể là tiến bộ công nghệ hoặc vốn chất xám của người lao động (nhờ đó làm Y tăng hơn mức mang lại từ việc tăng K và/hoặc L), hoặc cũng có thể đơn thuần chỉ là sai số thống kê.

Do đó, việc kiến nghị phải làm tăng TFP xem ra là quá mông lung, thay vì nói cụ thể là, ví dụ, phải cải thiện tiến bộ công nghệ, hay vốn chất xám, hay hiệu quả (sử dụng các nguồn lực) của nền kinh tế, các thành phần kinh tế v.v…

Một khi đã xác định rõ được như trên rằng động lực cho tăng trưởng kinh tế vẫn luôn chỉ là vốn, lao động và công nghệ/chất xám, thì cũng sẽ thấy rõ hơn phương hướng cho việc hoạch định chính sách để thúc đẩy tăng trưởng của Việt Nam nói riêng trong những năm tới.

Cụ thể là phải làm thế nào đó để cả 3 yếu tố này – vốn, lao động và, đặc biệt là, công nghệ/chất xám – tăng trưởng mạnh hơn nữa.

Trong vô số những việc phải làm theo phương hướng này, chắc chắn sẽ có việc là, nói một cách văn hoa, giải phóng hơn nữa năng lực sản xuất và sức sáng tạo của toàn xã hội. Mà để làm được vậy thì tất nhiên phải cải cách tư duy và thể chế hơn nữa để các động lực kinh tế, đặc biệt từ các kênh phi nhà nước (tư nhân, FDI), không bị chèn lấn, nhường chỗ cho kênh nhà nước.

Cải cách cũng là để bản thân kênh nhà nước có hiệu quả sử dụng vốn và lao động cao hơn, nhờ thế tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn từ cùng một lượng vốn và lao động.

Ngoài ra, tái cơ cấu kinh tế cũng là một biện pháp quan trọng phải thực hiện để đem lại một sự phối hợp tốt nhất giữa 3 động lực tăng trưởng nói trên tùy theo đặc điểm của mỗi vùng, ngành nói riêng và cả nền kinh tế nói chung, trong từng giai đoạn phát triển.

7 comments:

  1. Bác viết hay, logic và chí lý, em đồng ý với bác để VN ta phát triển và khai thác hết được tiềm năng thì điều quan trọng là phải đổi mới tư duy và thể chế. Nhưng mọi thứ chúng ta mong đợi thì thực tế diễn ra quá chậm chạp.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Tớ đang đợi bài này bị đập lại trên báo chí, vì nó đụng chạm đến khá nhiều người (toàn kinh cả) có những quan điểm như nêu trong bài. Tiếc là bài này đăng trên DNSG chắc không được dư luận quan tâm và đập lại.

      Delete
  2. Nhóm tác giả “động lực tăng trưởng” như FDI, khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân và nông nghiệp cũng kết luận cải cách thể chế (kinh tế, chính trị) sẽ giúp khai thông năng lực sản xuất (năng suất lao động) của Việt Nam. Họ nhận thấy một động cơ “ngoại” (khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI) đang chạy tốt, trong khi đó có tới 3 động cơ “nội” (gồm khu vực kinh tế nhà nước, khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước và nông nghiệp) đang trục trặc.

    Bởi vì DN FDI với công nghệ, chất xám, quản lý hiện đại gần như miễn nhiễm với những khó khăn vĩ mô, với thể chế trong nước, nên hoạt động hiệu quả, đóng góp lớn hơn trong quy mô GDP.

    “Theo lý giải của nhóm nghiên cứu này, sở dĩ động cơ còn lại hoạt động tốt là do các doanh nghiệp FDI dựa chủ yếu vào thể chế ở bên ngoài để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống luật pháp chi phối các quan hệ hợp đồng, bộ máy quản trị doanh nghiệp, liên kết sản xuất và tín dụng cũng đều từ bên ngoài và của nước ngoài” Nam Thanh, SGTT.

    Ngược lại, loại trừ những tác động của kinh tế thế giới, khu vực kinh tế trong nước như DNNN, DNTN, khu vực nông nghiệp tỏ ra hụt hơi, bị "mắc kẹt" sức sáng tạo và năng lực sản xuất bởi tư duy quản lý nhà nước hiện tại.

    Cùng thời gian nhu cầu đầu tư mới khu vực trong nước "ì ạch", không còn góp miếng bánh GDP lớn hơn như trước, thì DN FDI với những yếu tố nguồn vốn, nhân lực và công nghệ vượt trội (được coi là động lực tăng trưởng theo như anh Ngọc) dựa chủ yếu vào thể chế ở bên ngoài đã góp nhiều hơn vào xuất khẩu, vào giải quyết việc làm, vào tăng trưởng kinh tế.

    Thêm vào đó, khối DN trong nước thông qua việc cung cấp sản phẩm phụ trợ, hạ tầng cho DN FDI còn được vực dậy, được tiếp sức duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Chưa kể, đến một ngày, tiếng nói của DN FDI sẽ có trọng lượng hơn, biết đâu có sẽ thuyết phục cơ quan công quyền thiết lập một môi trường kinh doanh cởi mở, tự do hơn, khi đó DN trong nước sẽ được hưởng lợi theo.

    Dựa vào (những) ảnh hưởng/tác động (đã và có thể có) này, quan điểm coi FDI như “động lực tăng trưởng kinh tế” Việt Nam thời gian qua là đúng, khó bác bỏ (anh Ngọc cho là nhầm lẫn khái niệm).

    Nói hình tượng như anh, một cơ thể khuyết tật, không lành lặn thì những bộ phận lành lặn, khỏe mạnh còn lại (các cách/kênh đưa năng lượng (thực phẩm, nước, oxy) vào người để cơ thể hoạt động) vẫn có thể giúp duy trì nuôi dưỡng nó.

    Tóm lại, tư duy phải thay đổi để vận hành cơ thể tốt hơn, nghĩa là cải cách thể chế sẽ giúp tăng năng suất, tăng tính cạnh tranh của VN. Nhưng chuyện này thật sự sẽ khó xảy ra trong một hai năm tới, và thậm chí dài hơn, dù được thúc đẩy/bị ép từ nhiều phía. Một bằng chứng là hiến pháp mới được thông qua vẫn duy trì quy định sự chủ đạo kinh tế nhà nước và sở hữu toàn dân về đất đai.

    ReplyDelete
  3. Lâu lâu mới lại có một comment dài và hay thế này, quý quá :))

    Tớ phải "quy ra thóc" những động lực tăng trưởng thành những thứ cơ bản hơn như vốn, lao động và công nghệ, cũng tương tự như việc quy vật chất về các nguyên tử (chứ không phải dừng lại ở mức độ phân tử, hoặc giống triết học hồi trước quy vật chất là do sự tương tác giữa nước, lửa, đất...), để cho có sự thống nhất trong khái niệm.

    Vì tớ thấy, trước tiên, có một cái bất ổn rất lớn trong cách phân loại động lực tăng trưởng như của nhóm XYZ gì đó đồng chí đề cập (hình như Harvard?). Đó là sự lẫn lộn, lộn xộn trong khái niệm. Nếu là thành phần/khu vực thì sao lại còn đưa nông nghiệp vào đứng chung với 3 thành phần FDI, tư nhân, NN? Khu vực kinh tế đâu có phải là, và vì thế đâu có thể so sánh được với ngành kinh tế (nông nghiệp)?

    Nếu cứ phân loại tùy tiện thế này thì các tác giả XYZ sẽ nói sao khi tớ lập luận động lực tăng trưởng kinh tế sẽ phải là công nghiệp, xuất khẩu và... du lịch, hoặc hay hơn nữa là kiều hối? Cũng giống như đồng chí Anonymous và nhóm XYZ lý luận, tớ sẽ bảo là chỉ riêng kiều hối, trên 10 tỷ USD, đã đóng góp đến dăm điểm phần trăm tăng trưởng GDP rồi, bất chấp trong nước trồi sụt thế nào, thì đương nhiên phải gọi nó là động lực tăng trưởng chứ?

    Thứ nữa, nếu nói nhờ FDI để phát triển công nghiệp phụ trợ, thì tớ cũng có thể lập luận rằng rốt cuộc thì cũng vẫn phải nhờ (nền kinh tế hướng) xuất khẩu thì FDI mới muốn vào VN (tất nhiên không phải tất cả), mới kéo theo ngành công nghiệp phụ trợ; và chính nhờ hoạt động xuất khẩu (trực tiếp và gián tiếp, thông qua FDI) mà ngành phụ trợ mới phát triển.

    Về lập luận nhờ FDI thuyết phục cơ quan công quyền, thì tớ có thể kể ngay đến các công cụ thương mại sắc bén hơn như các thỏa thuận song phương và đa phương (WTO, TPP, AFTA etc.), các áp lực của các đối tác thương mại và đầu tư v.v... là những cái ép VN mở cửa tự do hơn nữa. FDI chỉ là một cấu thành kinh tế quốc tế có liên quan, chứ không phải là tất cả. Cứ theo logic "động lực" của các đồng chí XYZ thì có lẽ cũng phải kể cả các thỏa thuận/ràng buộc này nữa mới đủ chăng?

    Tóm lại, nói dài (quá) như thế là để vạch ra cái sự sai lầm về khái niệm cơ bản của các đồng chí chuyên gia, cứ tiện mồm phán bừa. Còn tất nhiên là tớ hiểu ý của các đồng chí (XYZ) nói gì, đánh giá thế nào về FDI.

    Nhưng cái nào ra cái đấy! Xôi thì ra phải ra xôi, oản thì phải là oản, nhỉ :))

    ReplyDelete
  4. Tôi cũng tán thành quan điểm động lực tăng trưởng của anh, nhưng vẫn muốn đưa ra góc nhìn khác ủng hộ phân tích “động lực tăng trưởng” theo thành phần kinh tế của nhóm FB (tuy có vẻ ba phải, lộn xộn, lưng chừng cho nên bị anh phang ở trên).

    Vì mới tập tành viết blog và còn quá trẻ nên mới để ẩn danh, lần trước tôi đã comment trong bài "Sao chúng nó ăn dầy thế", nhưng ... đành học hỏi thêm.

    Bài phỏng vấn dưới, ông Nguyễn Xuân Thành cũng nói về các sức ép cải cách đến từ bên ngoài, hội nhập.
    http://m.vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/155118/kinh-te-viet-nam-dang-o-nga-ba-duong.html

    ReplyDelete
  5. Tớ đồng ý là cũng nên nhìn nhận tầm quan trọng của FDI với tăng trưởng kinh tế. Điều này làm tớ nhớ đến một hội thảo kinh tế của Hiệp hội Kinh tế Đông Á, tổ chức tại Hong Kong năm 2004. Lúc đó tớ đi dự vừa với tư cách là người có bài được chọn để trình bày tại hội thảo, vừa là người phản biện cho một bài của một giáo sư gì gì đó khá có tiếng ở Hong Kong. Bài của GS HK này có tiêu đề đại loại nói về các xưởng vắt mồ hôi ở Trung Quốc (của FDI) với tăng trưởng của nước này, để rồi đặt câu hỏi là có nên theo đuổi mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào FDI như thế nữa không.

    Khi phản biện, tớ chỉ ra một số lỗi trong lập luận của GS này. Trên hết, tớ đặt ngược câu hỏi, không có FDI thì TQ có được như ngày nay không? Và tác giả trả lời thế nào với kết quả hàng trăm nghiên cứu tớ đã đọc qua về tăng trưởng ở TQ, hầu như đều kết luận rằng FDI đóng vai trò có thể nói là chính yếu?

    Nói thế thôi, cái gì cũng có sự tương đối. Ngay cả nông nghiệp, biết cách làm thì nó vẫn cứ là một "động lực" tăng trưởng, như FDI. Hãy cứ nghĩ kỹ điều này đi. Tớ lại nhớ lại hồi gặp GS Chandra Athukorala của ANU, một học giả khả kính, chắc không xa lạ với nhiều người, kể cả VN. Tớ có đặt câu hỏi về chuyện VN vẫn có một tỷ trọng nông nghiệp lớn và có cần phải thu nhỏ càng nhiều càng tốt không, GS này trả lời (hình như) rằng VN hãy cứ phát huy thế mạnh nông nghiệp của mình đi (trồng nhiều lúa, nuôi nhiều gà ... nhất là những loại có giá trị cao) v.v...

    Câu trả lời trên làm tớ lúc đó (đang làm TS) thất vọng lắm, vì nghĩ ông này nói linh tinh, ba phải. Nhưng giờ, chơi và làm việc ở một số nơi, tớ thấy ông GS này không phả không có lý.

    Vì vậy, trong bài "Nghiện tăng trưởng" lần trước tớ mới phê phán cái tư duy cứ phải làm công nghiệp hóa để đạt tốc độ tăng trưởng cao của các quan chức VN, do đó tha hồ phá rừng, lấy đất nông nghiệp.

    ReplyDelete
  6. À quên, về bài của đồng chí Thành, tớ chưa (muốn) đọc, nhưng cứ nhìn cái tiêu đề thì đoán rằng chuyện này là chuyện cũ rồi, nói mãi rồi (bản thân tớ cũng viết một đống về các thể loại này khi VN chuẩn bị vào WTO).

    Còn về chuyện đồng chí để nặc danh vì e ngại mình còn trẻ, cần học hỏi thêm là không cần thiết, tuy tớ chẳng phật ý gì hết, ngoài chuyện bất tiện, khi thay vì viết tên của đồng chí, ví dụ là X trong bài, để phần biệt với đồng chí khác, khi muốn tranh luận gì đó thì lại cứ phải gọi là đồng chí Anonymous xx:yy để phân biệt với đồng chí Anonymous yy:zz.

    Trẻ không có nghĩa là không biết gì (cứ suy từ tớ ra, như chuyện bắt bẻ mấy ông GS, hehe), nên các đồng chí cứ mạnh dạn mà xưng tên tuôi dõng dạc như Samurai Nhật ấy (khi đánh nhau với quân Nguyên, ai cũng rút kiếm ra, trước khi xông vào chém thì bao giờ cũng phải hô to dõng dạc, ta là xzy đây. Chưa kịp hô xong thì đã bị quân Nguyên bắn tên chết tươi!)

    ReplyDelete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).