Tuesday, 21 January 2014

Đồng chí Tây này phát biểu đúng nhưng... hơi muộn!

Đọc bài này và liên hệ với bài về động lực tăng trưởng tớ viết hôm trước mới thấy tớ lại... đúng, thế mới chán :)

http://bizlive.vn/kinh-te-dau-tu/ts-andrew-burns-fdi-khong-phai-la-lieu-thuoc-tien-78171.html

Đặc biệt lưu ý đoạn này:
"Chính sách của Chính phủ Việt Nam có thể tác động đến những động lực tăng trưởng dài hạn như đầu tư, nhân tố sản xuất và lực lượng lao động."

Và đoạn này:
"Ông Sandeep Mahajan, chuyên gia kinh tế hàng đầu của WB chia sẻ thêm: “Về giáo dục, hiện Việt Nam đã làm khá tốt nhưng cần có thêm những cải cách trong giáo dục đại học. Đồng thời, hiện Việt Nam là nước xuất khẩu nông sản lớn nhưng để đạt được tăng trưởng, giá trị gia tăng cao hơn thì cần phải hiện đại hóa hoạt động nông nghiệp hơn nữa”.

Hình như mấy ông Tây này phủ định ý kiến của nhóm Fulbright thì phải.

Tuy nhiên, cái chuyện nói rằng FDI không phải là thuốc vạn năng thì tớ đã nói đến cách đây đúng 5 năm rồi; lâu quá rồi nên phải cố nhớ xem viết trên báo nào. Sau một hồi lục lọi thì thấy nó ở đây, trên báo Đại biểu Nhân dân

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=59801

Các đồng chí chuyên gia với làm chính sách cứ chịu khó lục tìm các trước tác của tớ, thế nào cũng thấy ánh sáng soi đường sáng lòe, khỏi mất công đi tìm chân lý nữa!!!

16 comments:

  1. Tiếp tục phân tích tính tương đối của khái niệm động lực tăng trưởng mà anh đã điểm rõ bài trước, khi đánh giá mô hình tăng trưởng Trung Quốc thời gian qua, các nhà kinh tế khắp nơi cho rằng nước này lệ thuộc thiên lệch vào xuất khẩu và xây dựng, đầu tư.

    Khi châu Âu, Mỹ rơi vào khủng hoảng, giảm nhu cầu hàng hóa giả rẻ của TQ thì lĩnh vực xuất khẩu nước này lãnh đủ. Hậu quả là tăng trưởng kinh tế của TQ chững lại, chỉ còn tăng 7,7% năm 2013, so với con số trên 10% các năm trở về trước.

    Tăng trưởng kinh tế dựa vào đầu tư (máy móc, thiết bị, xây dựng hạ tầng ...) cũng đưa đến nguy cơ nợ xấu, nợ quốc gia tăng lên mà việc xử lý chúng đáng đe dọa tính ổn định vĩ mô nền kinh tế. Điều tương tự cũng xảy ra ở Việt Nam. Nguy cơ này (cả hai nước) đến từ căn bệnh "nghiện tăng trưởng" của chính quyền địa phương và trung ương.

    Mới đây Bộ trưởng Bộ KH-ĐT thẳng thắn thừa nhận chúng ta giao quyền quá nhiều cho địa phương trong việc cấp giấy phép đầu tư, song chưa nâng cấp năng lực điều hành, quy định pháp lý, giám sát tương xứng. Một ví dụ là "hội chứng" khu kinh tế, khu công nghệ cao, sân bay, bến cảng ... khắp cả nước.

    Trở lại với mô hình TQ, các đề xuất (của chuyên gia khắp nơi) là tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển dần phụ thuộc vào xuất khẩu và đầu tư sang tiêu dùng nội địa bằng các biện pháp nới lỏng tín dụng tiêu dùng, kích thích tiêu dùng thay vì tiết kiệm. Một giải pháp cũng được chính quyền TQ đưa ra là di dời dân nông thôn vào thành thị (đô thị hóa) bằng các chương trình xây dựng nhà ở xã hội quy mô lớn. Chưa rõ các chương trình tái cơ cấu sẽ được thực thi như thế nào, khi chính quyền vẫn lo sợ sự thay đổi như vậy sẽ kéo tụt tăng trưởng kinh tế và việc làm, nguy cơ rơi vào bất ổn.

    Với những gì đang diễn ra ở Việt Nam, không hẳn khu vực FDI vì không phải là thuốc vạn năng (ông Tây nói là sớm muộn lợi nhuận sẽ chuyển về nước sở hữu vốn FDI thực sự cho nên quan trọng là chỉ tiêu thu nhập quốc dân GNI, người dân Việt Nam nhận được bao nhiêu) nông nghiệp đã và đang âm thầm cứu vớt nền kinh tế, bởi nhu cầu toàn cầu và trong nước đối với sản phẩm nông nghiệp vẫn ổn định, vẫn còn tiềm năng tăng trưởng nếu biết cách để nâng cao giá trị tăng của nó, thay vì sản xuất, xuất khẩu thô, sơ chế như hiện nay.

    Như vậy, nói tăng trưởng bền vững dài hạn được thúc đẩy bởi vốn, nhân lực và công nghệ cũng đúng, vì đường nào cũng phải cải cách thể chế để tạo cú hích tăng trưởng mới nhưng nói nó còn lệ thuộc vào chuyển hướng sang tăng tỷ trọng tiêu dùng nội địa (TQ), nông nghiệp (VN) cũng chẳng sai.

    ĐN

    ReplyDelete
    Replies
    1. Như tớ đã nói ở bài trước, FDI, khu vực kinh tế NN, kinh tế tư nhân hay nông nghiệp chỉ là kênh dẫn, hoặc là nơi chốn/địa điểm để các động lực tăng trưởng - vốn, nhân lực, công nghệ - tác hợp tạo thành năng lượng cho tăng trưởng.

      Liên hệ với ý kiến trên của đồng chí, hướng vào tiêu dùng nội địa hay nông nghiệp thì bản chất cũng chỉ là việc thay đổi nơi chốn/địa điểm để cho 3 động lực tăng trưởng trên diễn ra sự tác hợp.

      Tóm lại, ở thể chế nào, chế độ nào, giai đoạn phát triển nào v.v... thì động lực tăng trưởng thì vẫn chỉ là 3 yếu tố đó mà thôi.

      Delete
    2. Anh nghĩ sao về nền kinh tế Nhật Bản hai thập kỷ qua? Chính phủ đã làm gì để đưa nước này ra khỏi sự trì trệ? Đó có phải là những chính sách làm tăng tổng cầu, tăng tiêu dùng nội địa và xuất khẩu nhờ vào chính sách nới lỏng, phá giá đồng Yên? Tất nhiên, nước Nhật cũng phải đầu tư cho nhận lực, vốn, công nghệ, vì chúng dễ "lạc hậu".

      Còn ở Việt Nam, tái cơ cấu là nhằm phân bổ lại nguồn lực này sao cho hiệu quả, khôi phục mức tăng trưởng tiềm năng. Chúng rõ ràng đã tăng lên suất thời gian qua, đặc biệt là tỷ lệ đầu tư gần bằng 40% GDP hằng năm nhưng đã được sử dụng không hiệu quả, phần lớn do DNNN mà hệ lụy là bất ổn kinh tế vĩ mô.

      Delete
    3. Đồng chí vẫn đang nhầm lẫn giữa ăn cái gì với cách ăn, cách chế biến thức ăn. Thức ăn chỉ có từng đấy thứ, đạm, bột, xơ, vitamin... Tùy vào đầu bếp sẽ có món bổ, ngon, dễ ăn, dễ hấp thu, hoặc ngược lại. Tùy vào cách ăn, ăn lỏng, ăn đặc, ăn nhão, và tùy vào thể trạng của người, thì cơ thể của người nào đó sẽ hấp thụ được bao nhiêu phần trăm dưỡng chất của thức ăn, ăn ít là no hay cứ phải ăn một bụng đầy.

      Nhật đang tạm thời thoát khỏi suy thoái vì cách đổ vốn vào nền kinh tế hiện nay (khác với cách đổ vốn trước đây; còn khác thế nào thì tớ chỉ biết láng máng thôi, không comment được, hehe) và vì thế có được lạm phát và tăng trưởng dương.

      Tương tự, VN muốn thoát khỏi tình trạng này thì phải thay đổi cách "ăn", cách dùng các nguồn lực để sao cho vẫn là những thứ "thức ăn" này nhưng có món ăn khác, có thành phần dinh dưỡng "bổ" hơn v.v... Mà cách ăn, cách chế biến này trong kinh tế chính là cải cách và đổi mới kinh tế.

      Tóm lại, câu chuyện vẫn như cũ, không có gì thay đổi cả. Động lực vẫn chỉ là từng đấy thứ nhưng cách sử dụng phải thay đổi để chúng phối hợp với nhau một cách tối ưu nhất, tạo ra nhiều sản phẩm nhất.

      Delete
    4. Bác Ngọc giải thích dân dã rất rễ hiểu, mà sao các vị GT, TS nói quá trời, quá hay, rốt cuộc người đọc, người nghe chả hiểu gì cả, lại còn bị nhằm lẫn khái niệm nữa. Em thấy có nhiều bác đang nhầm lẫn như bác trên, may quá em không bị, vì em không bị trúng thuốc...

      Delete
    5. Như có lần tớ đã nói, tớ cứ phải nói dân dã, suy từ cái nọ ra cái kia, vì tớ không thuộc, không nhớ lý thuyết cao siêu/xa, cứ phải "quy ra thóc" mọi thứ, mọi kiến thức (tức là quy những thứ cao siêu ra thứ tầm thường, thân thuộc hàng ngày) để tự mình dễ nhớ, dễ hiểu, và có dịp thì truyền đạt cho người khác.

      Nghiêm túc mà nói, tớ nghĩ cách "quy ra thóc" này của tớ cũng có thể áp dụng cho nhiều người khi quan tâm/học về kinh tế đấy. Tất nhiên, cái dở của phương pháp này là các đồng chí sẽ "ngọng" nếu ai đó hỏi vặn vẹo lý thuyết X với trường phái Y và tác giả Z v.v...

      Delete
    6. Ở VN, nhiều người học siêu, nên siêu hình quá, hay phát biểu theo kiểu "Từ chương": trích sách này, sách nọ, dựa theo ông này, bà kia, trường phái cổ điển X, trường phái hiện đại Y,... Đúng là chóng mặt, dại người. Bác Ngọc vẫn thuộc dạng thực dụng mà thực tế nhất! Anh em đọc dễ hiểu, dễ hình dung ra vấn đề hơn. Nói hơi nịnh bác một tí, nhưng mà thực lòng đấy!

      Delete
    7. Hehe, đồng chí khen thì tớ sướng, và sướng hơn nữa khi biết các ý tưởng của mình được tiêu hóa một cách dễ dàng. Cám ơn đồng chí cùng các bạn đọc.

      Mấy hôm nữa nghỉ Tết về VN chắc tớ ít/không viết blog nữa, chúc mọi người ăn Tết vui vẻ nhé! (à nhân cái vụ Tết này, tớ phản đối ý tưởng nhập 2 cái Tết làm 1).

      Delete
  2. Không khen bác nữa

    Xin hỏi trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng, ví dụ Nhật Bản những năm 2001 và 2002, kinh tế không tăng trưởng, giảm phát ngày một trầm trọng, thì động lực ở đây là gì vậy?

    Nếu bảo động lực là vốn, nhân lực, sao riết mãi đến giờ khi ông Abe mạnh tay nới lỏng chính sách nhằm tăng kỳ vọng lạm phát, dân Nhật chịu chi tiêu vì lo giữ tiền sẽ giảm giá trị thì tình hình mới khả quan.

    Không lẽ giới chuyên gia thời đó ở Nhật quên đề nghị tăng K, L sao?

    ReplyDelete
  3. Để tớ trả lời được đồng chí câu hỏi khó này, tớ cần đồng chí hợp sức. Đồng chí nghiên cứu rồi cho tớ biết tại sao Nhật hồi đó lại bị giảm phát? Chính phủ đã làm những gì để đối phó? Thành công hay không thành công? Tại sao? Chính sách hiện giờ của ông Abe khác với chính sách của chính phủ trước ở điểm gì, như thế nào?

    Đồng chí trả lời được thì chắc là câu trả lời cho câu hỏi trên của đồng chí sẽ có ngay thôi.

    Tớ thì, như đã nói ở phần trả lời trên, chỉ biết rằng cách đổ vốn vào nền kinh tế lần này của Nhật khác với lần trước (và không biết được cụ thể lắm, nên mới cần đồng chí cùng làm bài tập), nhưng tin rằng cùng là động lực thế nhưng do cách sử dung khác nhau nên đem lại hiệu quả khác nhau, thế thôi.

    ReplyDelete
  4. Giờ lật tìm các phân tích nguyên nhân giảm phát và chính sách đối phó của Nhật là một khối lượng công việc lớn. Mỗi sách, mỗi bên viết một kiểu, rất tốn thời gian (nhưng nếu có cơ hội, bác viết một bài về chuyện này đăng báo để phổ biến kiến thức cho mọi người). Vậy tôi xin theo logic mà suy luận.

    Giảm phát kèm với không tăng trưởng thì lẽ thường là do tổng cầu suy yếu. Tức suy giảm tiêu dùng, đầu tư theo kiểu vòng xuáy năm này qua năm nọ. Vậy thì, để đối phó, chính phủ Nhật có thể đã phải kích cầu thông qua việc hạ lãi suất ... Việc chính sách thất bại chẳng qua là do làm chưa đúng, chưa đủ, chưa khoa học dẫn đến kéo dài tình trạng giảm phát, dù cũng có năm chuyển biến tích cực.

    Cứ cho là lý lẻ trên thuộc dạng đoán mò (vì thật sự tôi chỉ ngồi trước "bàn phím" đọc những bài viết của anh và một số bloggers khác chứ chưa từng nghiên cứu về kinh tế Nhật giai đoạn này). Nhưng nếu thời đó mà chính phủ Nhật chú trọng nếu thúc đẩy các yếu tố thuộc tổng cung (ngắn hạn và dài hạn) như vốn, lao động, công nghệ, thì e rằng hàng tồn kho chồng chất, việc xuất khẩu cũng không giảm bớt sản lượng tồn này, rồi doanh nghiệp điêu đứng, nguy cơ phá sản, rồi kinh tế khủng hoảng (xin lỗi vì cũng chỉ phỏng đoán chứ chẳng có bằng chứng, con số cụ thể).

    Tôi rất ủng hộ quan điểm của anh trong bài viết này http://phan-minh-ngoc.blogspot.com/2013/05/chinh-sach-kinh-te-o-viet-nam-trong-cau.html "Như đã nói ở trên, thực ra chính sách trọng cầu không nhất thiết chỉ đúng/có giá trị trong ngắn hạn mà nó còn có thể có ảnh hưởng lên tăng trưởng trong dài hạn hơn. Quan trọng hơn, cũng như đã nói ở phần đầu, trong bối cảnh suy thoái, khủng hoảng cả trong và ngoài nước như thời gian từ năm 2007 đến nay thì chính sách trọng cầu tỏ ra thích hợp và cần thiết, trong khi chính sách trọng cung nói chung về lý thuyết thì không giải thích được (thỏa đáng) tại sao lại có suy thoái, còn thực tế thì không cung cấp được những bằng chứng thực chứng xác đáng cho thấy nó có tác dụng vực nền kinh tế ra khỏi những cuộc suy thoái này."

    Ở đây, tôi cũng tán thành với anh, không nhất thiết đánh đồng chính sách trọng cung với tất cả những chính sách tác động lên cung (qua tác động lên vốn, lao động, công nghệ).

    ReplyDelete
    Replies
    1. Điều khác biệt giữa Nhật với VN là Nhật mong có lạm phát để kích thích tiêu dùng và xuất khẩu, bằng cách bơm tiền hầu như không giới hạn. Nên cũng là sử dung vốn, nhưng tác động ở VN và Nhật khác nhau.

      Delete
  5. Bổ sung một chút những comment bên trên.

    Còn nhớ để cắt giảm lạm phát, ổn định vĩ mô giai đoạn 2011-2012, chính phủ buộc phải cắt giảm đầu tư công, hạn chế tăng trưởng tín dụng và cung tiền nên lãi suất lên cao. Cái giá phải trả là với chi phí vay cao, doanh nghiệp cắt giảm nhu cầu đầu tư mới máy móc, thiết bị, tiêu dùng của hộ gia đình giảm, hàng tồn kho tăng - phía tổng cầu – vì nhu cầu sản phẩm của DN giảm, đến lượt DN cũng phải thu hẹp sản xuất, sa thải nhân viên, tốc độ tăng trưởng thấp đi. Dù hơi sốc và đau đớn vô cùng khi dùng các biện pháp cắt kỳ vọng lạm phát, nhưng không thể tránh khỏi những năm đó, tối tận năm 2013 mới tạm an tâm về lạm phát.Thật ngạc nhiên, những chuyên gia hay đăng đàn, phát biểu như Bùi Kiến Thành, Quách Mạnh Hào kêu gọi cắt giảm lãi suất để gia tăng sản xuất, tăng cung, coi đó như biện phát cắt lạm phát.

    Không biết điều gì sẽ xảy ra ở Việt Nam nếu như những năm lạm phát cao trên hai con số như 2009, 2012, mà chính phủ cứu chứng khoán, rồi sau đó cứu bất động sản bằng các gói cứu trợ chục nghìn tỷ thì mục tiêu ổn định vĩ mô sẽ đi về đâu? Dù có cứu, có kế hoạch cứu nhưng may mắn là chúng chỉ nằm trên giấy hoặc được thực hiện không hiệu quả. Thà để thị trường tự do điều chỉnh lại hiệu quả hơn.

    Tuy hơi lạc đề nhưng cho thấy sự cần thiết nhìn về cả cung và cầu, không thiên lệch bên nào ngay cả dài hạn.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Thử tưởng tượng, trong giai đoạn khó khăn trên, thay vì tìm cách đổ thêm vốn vào nền kinh tế, chính phủ tìm cách cải thiện tính hiệu quả của nền kinh tế (yếu tố TFP, hoặc công nghệ, tiến bộ kỹ thuật v.v... như tớ nói trong bài) thì có khi không cần tăng vốn, nền kinh tế vẫn tăng trưởng khỏe mạnh. Bởi vậy, tớ mới nói rang tùy cách sử dung các động lực trong từng thời kỳ, tùy cách kết hợp 3 động lực, mà có kết quả khác nhau.

      Delete
  6. Bài phân tích này hay, cơ bản là tập trung cải cách cấu trúc và thể chế.
    http://www.project-syndicate.org/commentary/marek-dabrowski-says-that-the-global-economy-s-glory-days-are-in-the-past.

    Dịp Tết Giáp Ngọ, chúc anh và gia đình một năm mới vạn sự như ý! Mong anh có nhiều bài viết hay, mới lạ, bổ ích để chia sẻ với người đọc.

    ĐNhân

    ReplyDelete
    Replies
    1. Sáng nay là 30 Tết, định viết cái gì đó để tất toán một năm sắp qua, chào mừng năm mới nhưng đầu óc u u mê mê, toàn hơi bánh chưng và cảm giác dễ chịu, lười nhác khi đã lâu lâu mới được ở nhà với bố mẹ như ngày này những năm thơ ấu xa xưa, chịu chẳng thể nghĩ ra cái gì để viết cho "hoành tráng".

      Chưa sang năm mới nhưng cũng chúc các đồng chí bạn đọc yêu mến (và cả không yêu mến) blog này môt năm mới ít phải vật lộn hơn với cuộc đời.

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).