Thursday, 20 November 2014

Cuộc chơi mới của ông Abe (Bài đăng trên CafeF, 20/11)

http://cafef.vn/tai-chinh-quoc-te/cuoc-choi-moi-cua-ong-abe-2014112009014137719ca32.chn

(Cám ơn một đồng chí Anonymous đã gợi ý đề tài này cho tớ nhé).

--------------------------------------
Hôm 18/11, Thủ tướng Nhật Shinzo Abe cho biết ông muốn có một cuộc bầu cử sớm bằng cách giải tán Hạ viện vào ngày 21/11 để bầu ra Hạ viện mới dự định vào ngày 14/12 (theo luật thì bầu cử phải diễn ra trong vòng 40 ngày kể từ khi bị giải tán). Mục đích là để tìm kiếm lại sự chấp thuận cho các chính sách kinh tế của mình trong bối cảnh niềm hoài nghi về sự thành công của chúng đang ngày càng lên cao. 

Trong dịp này ông Abe cũng tuyên bố trì hoãn đợt tăng tiếp thuế tiêu dùng (từ 8% lên 10%) chỉ một ngày sau khi các số liệu kinh tế cho thấy nền kinh tế Nhật lại rơi vào suy thoái kỹ thuật khi tăng trưởng GDP ở mức âm liên tiếp trong 2 quý vừa qua, mà nguyên nhân được cho là do ảnh hưởng tiêu cực của đợt tăng thuế tiêu dùng lần đầu từ 5% lên 8% hồi tháng 4 năm nay đã kéo dài hơn dự tính.

Trước sự chỉ trích mạnh mẽ của dư luận và phe đối lập rằng chính sách kinh tế của ông, có tên lóng là Abenomics – một gói tổng hợp gồm chính sách tiền tệ siêu nới lỏng, tăng chi tiêu chính phủ và cải cách – đã thất bại và không có hiệu quả, ông Abe đã bật ngược lại rằng thực tế là không một ai phân tích được chính sách kinh tế hiện tại đúng hay sai và đưa ra được một ý tưởng cụ thể phải làm gì thay vào đó. Ông nhấn mạnh chính sách kinh tế hiện tại của mình là giải pháp duy nhất chấm dứt thiểu phát và phục hồi tăng trưởng kinh tế của Nhật.

Với chỉ trích cho rằng chính sách Abenomics chỉ làm lợi cho các công ty lớn và tầng lớp giàu có nhờ một đồng yen yếu và sự bùng nổ thị trường chứng khoán, nhưng lại làm hại người dân thường vì lạm phát đã tăng nhanh hơn tốc độ tăng lương của họ, dẫn đến tiêu dùng đã không tăng như kỳ vọng, ông Abe nói ông sẽ đưa ra các gói kích thích, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và địa phương nhỏ (gồm cả phiếu mua hàng), tuy giới truyền thông Nhật tin rằng các gói này sẽ có quy mô hạn chế, khoảng 2-3 nghìn tỷ yen. 

Nhưng trên hết, bất chấp sự phản đối, ông Abe khẳng định ông sẽ không từ bỏ chương trình cải tổ ngân sách để có tiền chi trả phúc lợi xã hội đang tăng nhanh chóng đồng thời giảm nợ công nay đã vượt quá gấp đôi GDP. Theo đó, thuế tiêu dùng sẽ được tăng thêm lần nữa vào tháng 4/2017, và sẽ không có lần trì hoãn thứ hai. 

Như vậy có thể thấy quyết tâm đi tới với công cuộc cải tổ ngân sách, với nòng cốt là tăng thuế tiêu dùng, thông qua tìm kiếm, một cách mạo hiểm, sự ủng hộ của giới chính trị gia là trọng tâm trong cuộc chơi mới này của ông Abe nhằm chống lại phe phản đối. Cũng cần lưu ý rằng tăng thuế là một vấn đề nhạy cảm ở Nhật vì nó mà một số lãnh đạo đã phải ra đi. Đa phần cử tri Nhật bỏ phiếu chống lại việc tăng thuế.

Vấn đề là tại sao thuế tiêu dùng dù có tăng thêm 3 điểm % nhưng mới chỉ là 8% ở Nhật lại gây ra tác động lớn đến vậy cho nền kinh tế Nhật, trong khi mức này ở châu Âu là 20% mà vẫn được chấp nhận? Thực tế là cho dù sau này có tăng lên 10% thì mức này ở Nhật cũng chỉ bằng phân nửa ở nhiều nước châu Âu. 

Câu trả lời có lẽ nằm ở việc tăng thuế quá nhanh, quá sớm ở Nhật, nơi mà người dân vốn quen với mức thuế tiêu dùng thấp. Mức tăng 3 điểm % hồi tháng 4 năm nay tương đương với 60% mức trước khi tăng (5%). Về mặt tâm lý, sự tăng như vậy là rất đáng kể nếu quy ra số tiền thực trả tăng lên. 

Ngược lại, trong lần tăng thuế tiêu dùng thêm 2,5 điểm % ở Anh năm 2011  mức tăng này chỉ tương đương với 14% mức hiện thời, và do đó không gây ra suy thoái. Việc tăng thuế tiêu dùng lên mức 20% tuy có làm cho tiêu dùng sụt giảm ở Anh trong quý đầu tiên sau khi tăng thuế (quý 1 năm 2011) và đi ngang trong quý kế tiếp, nhưng sau đó đã hồi phục hoàn toàn kể từ đó.

Tây Ban Nha cũng tăng thuế tiêu dùng từ 16% lên 21% từ 2010 nhưng họ thực hiện thành 2 đợt cách nhau 3 năm. Tương tự, Ý cũng tăng thuế từ 20% năm 2011 lên mức hiện tại là 22% qua 2 đợt tăng. Các đợt tăng thuế này đều không dẫn đến sụt giảm tiêu dùng ở nước sở tại.
 
Có lẽ đã học được bài học từ sau đợt tăng thuế mạnh hồi tháng 4 lên 3 điểm %, ông Abe lần này đã quyết định trì hoãn đợt nâng thuế lần thứ 2 thêm 18 tháng nữa, từ thời điểm dự định áp dụng ban đầu vào tháng 10/2015 sang đến tháng 4/2017 để cho nền kinh tế Nhật có thêm thời gian thích nghi và điều chỉnh mà không gây thêm áp lực rơi vào suy thoái.

Dù vậy, vẫn phải thấy cuộc chơi mới này của ông Abe vẫn còn đầy rủi ro. Chính vì biết dù có tăng lên 10% ở Nhật nhưng mức này vẫn còn thấp so với các đối tác trong khối OECD nên sẽ có nhiều người Nhật lo sợ rằng sau đợt tăng lên 10% này sẽ còn những đợt khác xảy ra, làm khốn khó thêm cuộc sống của họ. Bởi vậy, với họ việc để ông Abe tiếp tục thực thi chính sách của mình là một điều khó có thể chấp nhận.

2 comments:

  1. cảm ơn bác đã nhanh chóng có bài viết về vấn đề kinh tế của Nhật và chính sách kinh tế của ông Abe, nhưng em chưa thấy ý kiến của bác một cách rõ ràng về cái được và chưa được trong chính sách kinh tế này, bác có thể phân tích sâu hơn một chút không?

    Thanks bác nhiều!

    ReplyDelete
    Replies
    1. À, thực ra tớ không biết viết thêm về cái gì nữa vì hậu quả kinh tế của chính sách Abenomics thực ra là cái khó đoán định (phụ thuộc vào phản ứng của dân Nhật). Bằng chứng là đợt suy thoái này nằm ngoài dự định của rất nhiều người, trong khi mới trước đó mọi việc tỏ ra rất tốt đẹp.

      Viết thêm cái gì đó thì chủ yếu ở góc độ đoán (mò) thôi, nên tốt nhất không viết nữa cho đến khi mọi việc rõ ràng hơn.

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).