Friday, 19 June 2015

Liệu sắp có đợt bùng nổ bất động sản mới? (Bài đăng trên TBKTSG, 20/5/2015)

http://www.thesaigontimes.vn/131725/Lieu-sap-co-dot-bung-no-bat-dong-san-moi.html

Gần đây, thị trường bất động sản trong nước lại manh nha nóng trở lại với số người quan tâm vào đầu tư bất động sản đã nhiều hơn rõ rệt, phần vì các kênh đầu tư khác như vàng, gửi tiết kiệm và USD dường như đã phần nào mất tính hấp dẫn, trong khi nguồn kiều hối vẫn tiếp tục đổ vào mạnh. Bên cạnh đó, tin tức về nhiều dự án bất động sản lớn nhỏ đã được ký, từ những thương vụ mua sỉ một số căn hộ để cho chuyên gia nước ngoài ở, đến những vụ hợp tác giữa các công ty bất động sản trong nước với các quỹ đầu tư nước ngoài cam kết rót vốn hàng trăm triệu USD v.v... dường như càng tạo thêm động lực cho một bộ phận nhà đầu tư tiềm năng đón đầu một đợt sóng mới trong tương lai.
Trong bối cảnh này, không ít người lo ngại một bong bóng bất động sản mới sẽ sớm hình thành. Ngay cả Thủ tướng Chính phủ cũng khuyến cáo không để xảy ra tình trạng bong bóng bất động sản trong cuộc họp chính phủ mới đây. Vậy, có bao nhiêu khả năng xảy ra bong bóng bất động sản trong tương lai gần?
Điều đầu tiên phải kể đến khi phân tích triển vọng của một thị trường bất động sản là những yếu tố kinh tế vĩ mô hậu thuẫn cho thị trường bất động sản đó. Cụ thể hơn, một chính sách tiền tệ nới lỏng với tín dụng tăng trưởng mạnh luôn có khả năng châm ngòi cho sự bùng nổ trên thị trường bất động sản. Nhưng căn cứ vào lập trường chính sách của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nói riêng và chính phủ nói chung thì khả năng để cho tiền tệ và tín dụng tăng trưởng bùng nổ như đợt sốt bất động sản trước đây là không có nhiều. Bài học về tăng trưởng tiền tệ và bất ổn kinh tế vĩ mô suốt mấy năm qua vẫn còn nóng hổi và đã được quán triệt khá triệt để trong các cấp lãnh đạo hiện nay. Bởi thế, trừ khi có sự thay đổi đột ngột lập trường chính sách của chính phủ, thị trường bất động sản đã và sẽ không được “tiếp máu” một cách quá đà từ kênh tín dụng chính thức như trước nữa.
Thứ hai, Luật Nhà ở sửa đổi sắp có hiệu lực vào tháng 7 tới cho phép cá nhân và tổ chức nước ngoài được mua nhà tại Việt Nam cùng với việc đảm bảo các quyền sở hữu tài sản cho nhóm đối tượng này. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế tiếp tục được cải thiện sẽ làm tăng thu nhập của một bộ phận lớn dân chúng. Đó là chưa kể giá bất động sản nói chung đã sụt giảm khá mạnh trong suốt mấy năm qua và đã trở nên hấp dẫn hơn, trong tầm với của nhiều người hơn. Đây là chính là một trong những yếu tố tích cực chủ yếu sẽ vực cầu bất động sản lên. 
Tuy vậy, để giá bất động sản gia tăng nóng do nhu cầu tăng mạnh thì cần thêm một điều kiện là nguồn cung bất động sản phải bị giới hạn, hoặc tăng không mạnh, không nhanh bằng tốc độ tăng cầu về bất động sản. Nhưng theo thống kê chính thức của Bộ Xây dựng thì nguồn bất động sản tồn kho còn rất lớn, mới chỉ có dấu hiệu giảm đi, chứ chưa giảm mạnh (chưa kể là bản thân thống kê về con số tồn kho này còn bị nhiều người trong cuộc coi là bất hợp lý). Trong khi đó, hàng loạt các dự án bất động sản mới và cũ đã hoặc là tiếp tục được tái khởi động sau thời gian ngủ đông, hoặc là được tung ra mới nhằm chớp thời cơ giá bất động sản đang có vẻ nóng lên. Cũng giống như trong nhiều thị trường hàng hóa cơ bản trên thế giới vốn đang chìm ngập trong dư cung, như dầu mỏ và quặng sắt, mọi sự phục hồi nhẹ của giá cả nhờ cầu được cải thiện đều nhanh chóng bị nhấn chìm trở lại bởi nguồn cung lập tức gia tăng mạnh mẽ hơn, tình hình thị trường bất động sản chắc cũng không khác nhiều. Và cũng giống như các thị trường hàng hóa cơ bản, sự phục hồi giá cả có chăng sẽ diễn ra ở trên một vài phân khúc nhỏ, ở một vài thời điểm, một vài nơi, giá bất động sản ở Việt Nam nếu có tăng thì cũng sẽ theo mô thức như vậy, chứ khó hy vọng giá cả sẽ tăng đồng loạt trên diện rộng và duy trì được lâu dài.
Thứ ba, không chỉ vặn chặt hơn van tín dụng ở tầm vĩ mô (giảm tốc độ tăng tổng cung tiền ra nền kinh tế so với trước đây), NHNN cũng đã có sự điều tiết vi mô lên nguồn tín dụng từ hệ thống ngân hàng thương mại đổ vào bất động sản theo hướng chặt chẽ và thận trọng hơn. Khả năng rót tín dụng cho lĩnh vực bất động sản của các ngân hàng thương mại không chỉ bị chặn trực tiếp bởi hạn mức tăng trưởng tín dụng do NHNN duyệt hàng năm cho từng ngân hàng thương mại, mà còn bị chặn một cách gián tiếp thông qua giới hạn tỷ lệ nợ xấu không quá 3% tổng dư nợ mà NHNN quy định áp dụng chung cho cả hệ thống ngân hàng. Do một tỷ trọng lớn nợ xấu có nguồn gốc từ cho vay hay đầu tư vào bất động sản nên bản thân các ngân hàng thương mại cũng không muốn, không dám mạnh tay cho vay lĩnh vực này, dù NHNN có thể không khống chế tỷ lệ dư nợ cho bất động sản. 
Thứ tư, xét về nguồn vốn ngoài tín dụng ngân hàng có thể đổ vào thị trường bất động sản như tiết kiệm trong dân cư, kiều hối hay nguồn vốn nước ngoài. Đành rằng tiềm năng huy động những nguồn vốn này còn rất lớn nhưng không thể phủ nhận rằng một phần lớn nguồn vốn này có động cơ đầu cơ, đầu tư sinh lời. Nhưng với tư cách là nhà đầu tư, đầu cơ, chủ sở hữu các nguồn vốn này thường lại chỉ muốn bỏ tiền khi nhìn thấy cơ hội sinh lời rõ ràng và chắc chắn. Và như đã phân tích ở trên, chắc chắn không ít nhà đầu tư, đầu cơ nhận thấy thị trường vẫn còn (có xu hướng) bị lấn át bởi nguồn cung quá lớn trong khi cầu có manh nha tăng nhưng chưa đủ mạnh để hấp thụ hết dư cung. Họ có thể nhìn thấy cơ hội ở một phân khúc nào đó có khả năng khởi sắc mạnh hơn nên nếu có đầu tư thì sẽ đầu tư mang tính chọn lọc, và sự chọn lọc này không thể diễn ra ở quy mô lớn được, như đã nói bên trên. Một phần lớn các nhà đầu tư còn lại sẽ chọn thái độ chờ xem, hy vọng giá cả sẽ tiếp tục yếu đi hoặc một thương vụ hời nào đó mới phát sinh.
Tóm lại, có thể khái quát thị trường bất động sản hiện nay ở Việt Nam là một thị trường đang dư cung lớn trong khi nguồn nuôi dưỡng chính là tín dụng từ hệ thống ngân hàng đã và đang bị xiết lại khá chặt, còn nguồn tài chính từ các tổ chức phi ngân hàng và cá nhân vẫn phần lớn chỉ là tiềm năng. Tuy nhiên, tình hình hiện tại của thị trường bất động sản trong tương lai sẽ thay đổi hoàn toàn nếu mai đây các nhà quản lý vì một lý do nào đó lại nới van tín dụng ở cả tầm vĩ mô và vi mô mạnh trở lại như mấy năm cuối của thập kỷ trước.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).