Tuesday, 9 June 2015

Trao đổi xung quanh bài "Xuất khẩu nông sản giảm không chỉ vì tỷ giá" (Bài tí nữa thì được đăng trên TBKTSG)

Bài này tớ phang 2 đồng chí tác giả của bài viết trên ở TBKTSG
http://www.thesaigontimes.vn/131153/a.html


Vì lý do nào đó mà TBKTSG quyết định không dùng, nói rằng đã chuyển đến 2 tác giả này để rút kinh nghiệm.


Tớ định không cho lên đây, nhưng nghĩ là 2 đồng chí này thì có thể bỏ qua, nhưng cái luận điểm rằng để tăng xuất khẩu thì cần phải đa dạng hóa thị trường và sản phẩm v.v... thay vì phá giá là cái luận điểm sai lầm của rất nhiều người khác thì không thể bỏ qua, tha thứ được.
----------------------------------------------------------------------------


Trao đổi xung quanh bài "Xuất khẩu nông sản giảm không chỉ vì tỷ giá"


Bài viết trên của hai tác giả Trang Hạnh và Đinh Tuấn Minh ("các tác giả") trên TBKTSG số 7/6/2015 là một nỗ lực rất đáng ghi nhận vì đã phân tích và mổ xẻ vấn đề xuất khẩu dưới góc độ đa dạng hóa (thị trường và sản phẩm) và lợi thế so sánh được minh họa bằng những so sánh quốc tế với những số liệu cụ thể và thuyết phục. Có lẽ đây là một trong những phân tích đầu tiên ở dạng này cho Việt Nam, đã cung cấp được một bức tranh rõ nét hơn về khả năng cạnh tranh và tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua cũng như hàm ý cho thời gian tới.
Tuy nhiên, trong bài viết trên, các tác giả đã có sai lầm khi nối kết giữa những phát hiện từ phân tích của mình với thực tế suy giảm xuất khẩu của Việt Nam từ đầu năm 2015 đến nay.


Thứ nhất, sự nối kết này là không hợp lý khi các tác giả sử dụng số liệu trong quá khứ (từ năm 2005-2013) để giải thích cho một hiện tượng hiện tại - xuất khẩu sụt giảm như trong năm tháng đầu năm nay. Xu hướng trong quá khứ không nhất thiết sẽ tiếp tục diễn ra trong hiện tại và tương lai. Để có tính thuyết phục, các tác giả cần phải kéo dài chuỗi thời gian sử dụng trong phân tích của mình đến tận những tháng đầu năm nay và cho thấy được rằng đã có sự sụt giảm mạnh về lợi thế so sánh và mức độ đa dạng hóa trong mấy tháng đó. Tất nhiên, đây là điều khó vì khó có thể tìm kiếm được các số liệu cập nhật về thương mại của những nước được so sánh trong bài viết. Nhưng nếu vậy thì các tác giả cũng chỉ nên dừng lại ở nhận xét rằng quan sát của họ cho thấy xuất khẩu của Việt Nam là tương đối ít đa dạng và có lợi thế so sánh giảm dần trong thời gian trước đây, và chỉ thế thôi.
Thứ hai, nếu cứ theo hàm ý rút ra được từ phân tích của các tác giả thì lẽ ra xuất khẩu của Việt Nam phải sụt giảm (mạnh) trong năm 2014, nối tiếp chiều hướng trong cả giai đoạn nhiều năm trước đó. Nhưng thực tế cho thấy ngược lại. Điều này càng chứng tỏ không thể dùng chiều hướng quá khứ để giải thích cho sự việc xảy ra trong một giai đoạn (ngắn) nào đó trong tương lai.


Thứ ba, mặc dù không bàn đến ảnh hưởng của tỷ giá lên xuất khẩu trong bài, nhưng các tác giả cũng đã thận trọng một cách cần thiết khi không phủ nhận tỷ giá là một nguyên nhân (chính) làm suy giảm xuất khẩu, bên cạnh yếu tố đa dạng hóa và duy trì lợi thế so sánh như họ đã chứng minh. Tuy nhiên, các tác giả đã không bóc tách và lượng hóa được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố/biến số có khả năng ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam của các yếu tố này (và cả những yếu tố khác, ví dụ như cung cầu thế giới). Đương nhiên là việc lượng hóa tác động của những yếu tố này là khá phức tạp, vượt quá phạm vi một bài viết ngắn trên báo chí. Nhưng trong chừng mực như vậy thì các tác giả cũng không có đủ cơ sở để kết luận rằng điểm yếu về cơ cấu thị trường và duy trì lợi thế so sánh là một số trong những nguyên nhân gây ra ảnh hưởng đáng kể (tức có ý nghĩa về mặt thống kê) làm xuất khẩu sụt giảm như gần đây.
Thứ tư, và liên quan đến điểm trên, các tác giả đã khá lúng túng trong việc tìm ra nguyên nhân cho phát hiện của mình rằng lợi thế so sánh của thủy sản và lúa gạo của Việt Nam đang giảm dần. Một mặt, các tác giả cho rằng sự giảm dần lợi thế so sánh là do sự chuyển dịch cơ cấu ngành. Mặt khác, các tác giả lại gần như tự phủ định khả năng này với nhận định: "Điều này có nghĩa là sụt giảm lợi thế so sánh không hẳn hoàn toàn là do chuyển dịch cơ cấu kinh tế". Tuy tự mâu thuẫn và lúng túng như vậy nhưng các tác giả vẫn mạnh dạn kết luận và đề xuất rằng: "Định hướng quan trọng nhất trong thời gian tới đối với ngành nông nghiệp Việt Nam là cần xác định được những thị trường chiến lược và kết nối doanh nghiệp xuất khẩu với các thị trường này".


Cũng như đã nói ở trên, lẽ ra các tác giả phải tính toán và lượng hóa được mức độ ảnh hưởng của các biến số liên đới lên xuất khẩu để chứng tỏ rằng lợi thế so sánh (và sự đa dạng hóa thị trường) là những biến số có ảnh hưởng lớn nhất, đáng kể nhất (hầu như là duy nhất) làm sụt giảm xuất khẩu của Việt Nam, và vì thế cần phải thực hiện những việc như các tác giả đề xuất, chứ không phải là phá giá tiền đồng.
Bên cạnh đó, cũng cần phải lưu ý rằng khả năng duy trì lợi thế so sánh thực ra lại là một hàm số của các biến số giải thích, trong đó cả cả biến số tỷ giá. Vì thế, các tác giả lẽ ra cũng cần phải dành một phần phân tích của mình để đánh giá mối quan hệ nhân quả giữa tỷ giá và sự suy giảm lợi thế so sánh, để loại trừ được khả năng tỷ giá bất lợi đã làm suy giảm lợi thế so sánh và từ đó mới làm suy giảm xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời, cũng cần thấy rằng sự đa dạng hóa thị trường đôi khi cũng phụ thuộc vào ngày chính tỷ giá, bởi, ví dụ, khó mà tăng xuất khẩu được vào những thị trường mà ở đó đồng bản tệ đạ bị định giá thấp hơn so với tiền đồng. Do đó, nếu không phân tích và bóc tách sâu được như vậy thì các tác giả mới chỉ đề cập được đến hiện tượng mà chưa chạm đến bản chất của vấn đề.


Tóm lại, tuy đa dạng hóa thị trường và tim cách đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh luôn là điều nên và cần làm, đúng theo cả lý thuyết và thực tế, không cần phải chứng minh, nhưng chúng không nhất thiết là nguyên nhân (chính) cho sự sụt giảm xuất khẩu trong một giai đoạn (tương đối ngắn) nào đó. Ngược lại, tìm cách thúc đẩy xuất khẩu mà không làm cho tiền đồng có tính cạnh tranh hơn thì hiệu quả của những nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu này sẽ bị triệt tiêu một phần, thậm chí hoàn toàn.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).