Friday 5 June 2015

Nhận thức đúng về xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 5/6/2015)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=350982

Hiện nay ở Việt Nam đang dấy lên một làn sóng xã hội hóa nguồn lực đầu tư vào cơ sở hạ tầng, từ sân bay, đường cao tốc, đến cảng biển và thậm chí cả các bệnh viện công.
 
Thực ra, chủ trương huy động các nguồn lực xã hội không phải là hiện tượng mới. Nó đã được đề xuất đưa vào thí điểm từ hàng chục năm trước với những dự án như cổ phần hóa Bệnh viện Từ Dũ hay đấu giá quyền khai thác cảng Cái Lân. Cụm từ “xã hội hóa” về thực chất có nghĩa là cho phép và kêu gọi các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước đầu tư xây mới hoặc khai thác các công trình hạ tầng một cách độc lập hoặc hợp tác với Nhà nước. Bởi vậy, có thể coi những chủ trương như cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN), thoái vốn DNNN vào các ngành không cốt lõi, nới hạn mức sở hữu nước ngoài (room), và hợp tác công tư... đều là những dạng thức xã hội hóa đầu tư.
 
Xã hội hóa đầu tư sẽ xóa bỏ thế độc quyền, độc tôn của DNNN trong nhiều lĩnh vực, đặt các DNNN vào thế phải cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân hoặc phải thu hẹp quy mô, thậm chí là tự đào thải, qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ sở hạ tầng. Xã hội hóa cũng mở đường, tạo thêm cơ hội cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển, không chỉ mang đến những công trình hạ tầng cơ sở mới mà với nguồn lực hữu hạn của Nhà nước khó có thể tạo ra, mà còn tạo ra thêm công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
 
Ngoài ra, việc tư nhân hóa, bán các tài sản hạ tầng cơ sở thuộc sở hữu Nhà nước không chỉ mang lại một nguồn ngân quỹ mới, giảm thâm hụt ngân sách mà còn làm lợi cho ngân sách nhà nước khi góp phần giảm bớt tham nhũng và thất thoát từ chi tiêu mua sắm công và đầu tư vào dự án công. Xã hội hóa cũng sẽ làm giảm gánh nặng tài chính và trách nhiệm của Nhà nước, giúp nó tập trung vào nhiệm vụ cốt lõi của mình, ví dụ như bảo đảm an ninh quốc gia.
 
Tuy có ý nghĩa to lớn như vậy, nhưng chủ trương xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng đã bị bỏ lửng và trì hoãn khá lâu, trước khi được tái khởi động xem xét và đưa vào thí điểm trong một số lĩnh vực cụ thể như gần đây. Ngoài sự chống đối của một bộ phận quan chức liên đới vì lo sợ mất đặc quyền thì hạn chế trong nhận thức, quan niệm và tầm nhìn của nhiều quan chức khác cũng là một trong những nguyên nhân chính đã và đang làm cho quá trình xã hội hóa diễn ra một cách khá chật vật.
 
Quan niệm rằng Nhà nước vẫn phải nắm những lĩnh vực quan trọng và then chốt trong nền kinh tế, không thể để “rơi” vào tay tư nhân, đặc biệt là người nước ngoài, nhiều khi đã bị vô tình hay cố ý lạm dụng, nhận thức sai. Ví dụ, trong việc xã hội hóa giao thông vận tải đường sắt, Tổng công ty Đường sắt lại đề nghị được trực tiếp sở hữu và quản lý các đầu máy; các công ty vận tải đường sắt sau cổ phần hóa sẽ thuê sức kéo theo hợp đồng với Tổng công ty. Dù có vài lý do, nhưng xét cho cùng chỉ là để hợp lý hóa, cố níu kéo sự độc quyền trong ngành đường sắt qua việc nắm quyền chi phối đầu kéo để ràng buộc các công ty khai thác vận tải đường sắt tư nhân.
 
Rồi trong việc tư nhân hóa các sân bay, Bộ Giao thông - Vận tải vẫn chủ trương Nhà nước phải kiểm soát, quản lý bay để “bảo đảm an ninh, quốc phòng, an toàn hàng không”. Hẳn nhiên nếu một thế lực phi nhà nước nào đó nắm được quyền kiểm soát, quản lý bay, rất có thể họ sẽ tiến hành những hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia và gây mất an toàn bay nên nỗi lo như thế này của Bộ Giao thông - Vận tải không phải không có lý. Bên cạnh đó, lý do “bảo đảm lợi ích xã hội”, tránh độc quyền tư nhân gây hại cho người sử dụng dịch vụ hạ tầng cơ sở cũng hay được trích dẫn để bảo vệ cho chủ trương không tư nhân hóa, nhượng quyền khai thác một công trình nào đó. 
 
Tuy nhiên, nhìn rộng ra thế giới, chắc cũng có những nỗi lo tương tự và không kém phần “nhạy cảm” so với Việt Nam, nhưng nhiều nước đã tiến hành tư nhân hóa hoàn toàn ngay cả lĩnh vực quản lý bay, chưa kể họ đã tư nhân hóa quyền sở hữu và khai thác nhiều sân bay ở hàng loạt thành phố lớn trên thế giới. Bên cạnh đó, hệ thống cảng biển cũng đã được tư nhân hóa ở nhiều nước trên thế giới, và họ dường như không bị trói tay bởi những khái niệm khá mơ hồ như “an ninh”, “an toàn”, và “lợi ích xã hội” như ở Việt Nam.
 
Với nhiều ví dụ thực tiễn về xã hội hóa, tư nhân hóa cơ sở hạ tầng trên thế giới như vậy thì các vấn đề liên quan đến “an ninh”, “an toàn” và “lợi ích xã hội” ở Việt Nam hoàn toàn có thể giải quyết được một cách hữu hiệu, tránh được rủi ro là một bộ phận có quyền lực nào đó sẽ lợi dụng chiêu bài bảo đảm những cái này để đắc lợi, cản trở và trì hoãn thêm nữa chủ trương xã hội hóa. Cụ thể hơn, ngay trong lĩnh vực quản lý bay, dù được đặt trong tay một DNNN hay một công ty tư nhân thì những công ty này vẫn nên và phải được giám sát, quản lý bởi một cơ quan quản lý nhà nước chủ quản như Cảng vụ hàng không hoặc một tổ chức tương tự như vậy của Bộ Giao thông - Vận tải. Cơ quan chủ quản này mới chính là cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về an ninh, an toàn bay trên lãnh thổ Việt Nam, thông qua việc ban hành các quy chế, luật lệ liên quan và thanh tra, giám sát, và buộc các doanh nghiệp quản lý bay thực thi nghiêm túc các quy định và luật lệ này.
 
Xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng là một chủ trương đúng đắn. Nhưng để thúc đẩy chủ trương này cần quyết tâm vượt lên nhiều rào cản khó tháo gỡ lâu nay.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).