Tín dụng tiêu
dùng đang trên đà khởi sắc ở Việt Nam từ vài năm nay với một loạt yếu tố hỗ trợ
tích cực. Mặt bằng lãi suất đã giảm dần
từ mức rất cao trong giai đoạn 2011-2013 xuống mức 6%-7% (lãi suất tiền gửi)
như hiện nay. Vì vậy, tuy người tiêu dùng vẫn còn khá thận trọng với việc tăng
chi tiêu nhưng họ cũng đã cởi mở với và sẵn sàng hơn trong việc đi vay để mua sắm
tiêu dùng nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của mình và gia đình.
Mặt khác, lạm
phát đã và đang trên đà giảm mạnh trong mấy năm qua, nhất là giá xăng dầu đã giảm
mạnh bắt đầu từ năm trước trong khi tăng trưởng kinh tế và, do đó, thu nhập vẫn
tiếp tục xu hướng được cải thiện nên người tiêu dùng đã trút bớt đi được gánh nặng
chi phí cho cuộc sống vốn gia tăng mạnh trong giai đoạn lạm phát bùng phát
2011-2013. Chi phí và lo toan cho cái ăn cái mặc thường nhật giảm bớt đi sẽ
giúp người tiêu dùng có thêm động lực mua sắm hàng hóa lâu bền và có giá trị
cao. Ngoài ra, khi cuộc sống “dễ thở” hơn thì nhu cầu cải thiện điều kiện nơi
ăn chốn ở đã được chú trọng hơn với nhiều người tiêu dùng. Bởi vậy, người tiêu
dùng hiện nay cũng ngày càng quan tâm hơn đến vay trả góp để mua hay sửa chữa
nhà cửa.
Về phía ngân hàng
và công nghệ ngân hàng, công nghệ thanh toán, sự phổ cập thẻ tín dụng đã diễn
ra với tốc độ nhanh chóng nhờ sự gia tăng mạnh của ngành bán lẻ qua sự phổ cập
ngày càng sâu rộng của mạng Internet, nhờ ngày càng có nhiều điểm bán lẻ chấp
nhận thanh toán thẻ tín dụng, và nhờ sự quảng bá, khuyến mại, khuyếch trương rộng
rãi bởi các ngân hàng cho nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ nói chung và thẻ tín dụng
nói riêng trong cộng đồng người tiêu dùng tiềm năng. Những yếu tố này đã cộng
hưởng mạnh với nhu cầu mua sắm tiêu dùng cao hơn của người tiêu dùng để tạo ra
một thị trường tín dụng tiêu dùng đầy tiềm năng tăng trưởng ở Việt Nam.
Tuy vậy, tín dụng
tiêu dùng mới chỉ có lịch sử tương đối ngắn ở Việt Nam. Chẳng hạn, trong lĩnh vực
thẻ tín dụng, thẻ tín dụng đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam vào năm 1990 do Ngân
hàng Ngoại thương phát hành, trong khi đó thẻ tín dụng đã xuất hiện và trở nên
phổ biến ở các nước phát triển, nhất là ở Bắc Mỹ từ đầu những năm 1950. Có lẽ một
phần bởi lý do này nên ngoài những chính sách tạo điều kiện cho tín dụng tiêu
dùng phát triển mạnh hơn, dường như mảng dịch vụ này vẫn chưa được các cơ quan
quản lý nhà nước chú trọng đúng mức và có những biện pháp quản lý thích hợp như
ở những nước phát triển để hạn chế rủi ro cho cả 2 bên, người tiêu dùng và ngân
hàng cũng như các tổ chức tài chính, tín dụng cung cấp dịch vụ tín dụng tiêu
dùng. Thậm chí gần đây giải pháp khuyến khích phát triển mạnh tín dụng tiêu
dùng từ hệ thống tài chính ngân hàng còn được nhiều người đề xuất như là một giải
pháp hữu hiệu để chống lại nạn tín dụng đen.
Lấy ví dụ trường
hợp ở Singapore, Chính phủ nước này từ mấy năm gần đây đã từng bước siết chặt
các quy chế và luật lệ về cho vay tiêu dùng không có bảo đảm, thế chấp. Nguyên
nhân một phần vì họ lo ngại gánh nặng trả lãi và gốc của các khoản vay mua bất
động sản ngày càng tăng lên vượt quá khả năng chi trả của người tiêu dùng. Để hạn
chế rủi ro mất khả năng chi trả này, Chính phủ Singapore đặt ra các quy định
như phải rà soát, xem xét tổng số nợ của các cá nhân và hộ gia đình cũng như hạn
mức tín dụng cho họ trước khi phát hànhthẻ tín dụng hoặc cấp hạn mức tín dụng
không có tài sản thế chấp, đảm bảo. Các quy định này cũng không cho phép người
tiêu dùng với lịch sử mất khả năng thanh toán đúng hạn trong 2 tháng hoặc hơn
cho các khoản vay nợ không có tài sản thế chấp được vay tiếp.
Đối chiếu điều
này với Việt Nam có thể thấy việc quản lý dữ liệu tài chính cá nhân để khống chế
hạn mức vay nợ không có tài sản thế chấp như thế này còn quá xa vời, ít nhất vì,
ví dụ, cơ sở dữ liệu cá nhân thống nhất và tập trung cho hầu hết dân số trong độ
tuổi trưởng thành chưa thể được xây dựng và cập nhật, làm cho các ngân hàng và
tổ chức tài chính tín dụng không thể nắm chính xác lịch sử tín dụng như thế nào
và các khoản vay nợ hiện tại của mỗi cá nhân ở Việt Nam là bao nhiêu, cho những
mục đích gì v.v... Từ thực tế này, chắc chắn sẽ có nhiều vụ việc mất khả năng
chi trả phát sinh cùng với đà mở rộng tín dụng tiêu dùng ở Việt Nam do khả năng
chi trả của con nợ không được kiểm soát và đánh giá đầy đủ. Bởi vậy, việc xây dựng
và cập nhật, quản lý một cơ sở thông tin tín dụng ngày càng bao phủ sâu rộng
trên toàn lãnh thổ là điều bắt buộc song hành với việc đẩy mạnh tín dụng tiêu
dùng ở Việt Nam.
Chính phủ
Singapore cũng đặt ra những hạn mức gọi là Tỷ lệ tổng chi trả nợ và lãi vay
(Total Debt Servicing Ratio, TDSR) so với tổng thu nhập cá nhân và hộ gia đình,
nhằm hạn chế người tiêu dùng trong việc vay mua nhà quá mức, vượt quá khả năng
chi trả định kỳ lãi và gốc các khoản vay mua nhà của họ. Tùy theo từng giai đoạn
và phản ánh của người tiêu dùng mà Chính phủ Singapore có những sửa đổi về điều
kiện của hạn mức này cho phù hợp. Ví dụ, năm 2013, Chính phủ ban hành quy định chỉ
cho phép các tổ chức tài chính tín dụng cho vay một cá nhân nào đó ở mức tối đa
là 60% tổng thu nhập trước thuế hàng tháng của người đó TRỪ ĐI nghĩa vụ trả nợ
hàng tháng của người đó cho các khoản vay nợ hiện tại (nếu có) như dư nợ vay thẻ
tín dụng, dư nợ vay học tập, mua ô tô, vay cá nhân, nợ các nhà bán lẻ dưới hình
thức trả góp qua thẻ tín dụng... Đến năm 2014, Chính phủ Singapore nới lỏng các
điều kiện về cho vay đảo nợ mua nhà vì một số người đã gặp khó khăn trong việc
này theo các điều kiện quy định năm 2013.
Quy định trên cũng
nên được áp dụng sớm ở Việt Nam vì trong nhiều trường hợp chỉ riêng nghĩa vụ trả
lãi và nợ gốc vay mua nhà vượt quá nửa thu nhập của cả hộ gia đình, dẫn đến khả
năng vỡ nợ cao nếu có bất cứ rủi ro nào trong thu nhập và việc làm của các
thành viên gia đình.
Ngoài ra, Chính
phủ Singapore còn có những quy định tưởng như “quá đáng” nhưng lại tỏ ra rất cần
thiết trên thực tế như quy định Đăng ký Không Được Gọi (Do Not Call Registry,
DNC), là một phần trong Luật bảo vệ dữ liệu cá nhân. Theo quy định về DNC thì
người tiêu dùng được phép đăng ký số điện thoại của họ với chính quyền để không
nhận những quảng cáo marketing qua các cuộc gọi, tin nhắn, hay fax. Nếu cá nhân
hay tổ chức nào đó gửi nhắn tin hay gửi fax đến những số điện thoại đã đăng ký
DNC này thì người hay tổ chức đó bị coi là vi phạm pháp luật và sẽ bị phạt tối
đa lên tới 10.000 đôla Singapore (khoảng 7.000 USD theo tỷ giá hiện thời) cho mỗi
lần vi phạm. Đăng ký DNC đã giáng một đòn mạnh vào các công ty có hoạt động
marketing từ xa, vốn là một hoạt động marketing phổ biến của phần lớn các tổ chức
tài chính.
Một quy định
tương tự như DNC cũng là điều rất cần thiết ở Việt Nam khi người tiêu dùng hàng
ngày hàng giờ bị tra tấn không ngừng nghỉ bởi các tin nhắn rác và cuộc gọi quảng
cáo đủ thứ từ bất động sản đến thẻ tín dụng và mua ô tô v.v...
No comments:
Post a Comment