Với mức lạm phát trong tháng 9 thấp ở mức kỷ lục 10 năm qua, lãi suất hiện nay của Việt Nam đang ở mức thực dương quá cao (với lãi suất tiết kiệm 12 tháng có mức thực dương ở trong khoảng 5%-6% hoặc hơn. Lãi suất thực dương quá cao tất nhiên sẽ làm khó rất nhiều cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế khi tiền trả lãi – được coi là một trong những chi phí đầu vào của các doanh nghiệp – sẽ bị đội lên đáng kể, làm đội giá thành sản xuất và do đó giá bán, từ đó trực tiếp làm giảm tính cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa, dẫn đến một loạt hậu quả như nhập siêu gia tăng, sản xuất trì trệ, hàng tồn kho gia tăng, tăng trưởng chậm hơn.
Bởi vậy, hạ lãi
suất trong bối cảnh lạm phát đang rất thấp như hiện nay là một vấn đề có tính sống
còn cho các doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Vấn đề đặt ra ở
đây là hạ lãi suất bằng cách nào, và có thực hiện được không?
Vì lãi suất ta
đang nói ở đây là lãi suất VND nên việc điều chỉnh lãi suất là trách nhiệm cũng
như trong khả năng và tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Để hạ lãi suất,
NHNN sẽ phải nới lỏng cung tiền bằng cách bơm thêm VND vào nền kinh tế thông
qua hệ thống ngân hàng với các công cụ như giảm dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất
chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn. Một khi thanh khoản trong hệ thống ngân hàng
dồi dào hơn với lãi suất thấp hơn nhờ có nguồn vốn lãi suất thấp do NHNN bơm ra
thì lãi suất của ngân hàng cho vay ra nền kinh tế cũng sẽ có xu hướng giảm theo
đúng như ý đồ của NHNN.
Nhưng thực tế cho
thấy mặt bằng lãi suất nói chung không cho thấy có dấu hiệu giảm nhiệt trong suốt
cả năm nay, chứng tỏ NHNN đã không bơm thêm tiền đủ mạnh cho nền kinh tế. Những
lý do khác mà một số người viện dẫn cho việc lãi suất không thể giảm được như vừa
qua nào là do các ngân hàng chạy đua nâng lãi suất huy động để đáp ứng nhu cầu
tín dụng đang tăng trưởng nhanh, nào là do Chính phủ nâng lợi suất trái phiếu
chính phủ để phát hành được đủ lượng trái phiếu nhằm bồi đáp thâm hụt ngân sách
ngày càng tăng v.v... thực ra không phải là nguyên nhân của việc lãi suất VND đứng
ở mức cao, mà chỉ là hậu quả trực tiếp của việc bơm tiền không đủ của NHNN. Cụ
thể hơn, khi tổng lượng VND được tung ra lưu thông được khống chế ở một mức nhất
định thì các ngân hàng buộc phải cạnh tranh, giành giật với nhau để huy động được
trong số vốn VND hữu hạn đó. Còn với trái phiếu Chính phủ, đương nhiên là trong
khuôn khổ có hạn của cung VND trong nền kinh tế thì nếu Chính phủ càng phát
hành nhiều trái phiếu thì lãi suất sẽ càng có xu hướng gia tăng, đơn giản vì phát hành trái phiếu là
một yếu tố bên phía cầu VND. Ngược lại, nếu NHNN luôn đáp ứng đầy đủ vốn VND của
hệ thống ngân hàng cũng như của Chính phủ thì lãi suất không thể đứng ở mức cao
như hiện nay được.
Vậy trước khi
khuyến nghị NHNN gia tăng cung tiền VND như là một cách làm đơn giản để giảm
lãi suất, ta cần mổ xẻ nguyên nhân nào đã ngăn cản NHNN không thể tăng cung VND
(đủ lớn) được. Nói cách khác, lý do nào để NHNN e ngại khi có quá nhiều VND được
bơm ra nền kinh tế ?
Tăng cung VND sẽ
trực tiếp dẫn đến 2 hậu quả: (i) lạm phát sẽ có khả năng tăng trở lại, và (ii)
tỷ giá VND sẽ chịu thêm áp lực tăng lên (VND yếu đi). Về hậu quả thứ nhất,
trong bối cảnh lạm phát đang ở mức thấp kỷ lục như hiện nay, chủ yếu nhờ giá
năng lượng và các loại hàng hóa cơ bản khác trên thế giới đang trên đà giảm sút
mạnh và chưa có dấu hiệu phục hồi bền vững trong tương lai gần, thì mọi áp lực
gia tăng (nếu có) của hành động tăng cung VND của NHNN lên lạm phát ở Việt Nam
sẽ bị triệt tiêu hoàn toàn hoặc phần lớn bởi sự tiếp tục suy yếu của giá hàng
hóa thế giới trong nhiều tháng tới. Như thế có nghĩa là nếu NHNN tăng cung VND
thì lạm phát không phải là mối bận tâm lớn trong thời gian tới.
Về hậu quả thứ
hai, cho dù vẫn còn nhiều tranh cãi trong việc nên hay không nên phá giá VND (để
VND suy yếu đi so với USD), nhưng chắc chắn có một đồng thuận là NHNN đang cố gắng
bảo vệ tỷ giá không cho vượt khỏi biên độ hiện tại cho đến hết năm hoặc sang đầu
năm sau, kể cả bằng cách tốn kém như bán USD từ dự trữ ngoại hối để can thiệp, ổn
định tỷ giá. Như vậy, có thể nói tỷ giá chính là nút thắt cho việc hạ lãi suất ở
Việt Nam hiện nay. Như thế cũng có nghĩa là việc hạ lãi suất là một trong ba lựa
chọn chính sách của NHNN hiện nay: (1) hạ lãi suất nhưng phải đổi lấy hậu quả
là tỷ giá gia tăng (VND bị mất giá thêm); (2) ổn định tỷ giá nhưng phải đổi lấy
hậu quả là lãi suất không giảm được, thậm chí còn gia tăng (vì ổn định tỷ giá
thì phải giảm cung VND bằng thắt chặt chính sách tiền tệ, và/hoặc tăng cung USD
bằng cách bán ra USD và hút về VND, cũng dẫn đến làm giảm cung VND cho nền kinh
tế); (3) chấp nhận để tỷ giá tăng lên một chút (chẳng hạn phá giá VND thêm 1 hoặc
2 điểm % nữa, hoặc nới lỏng thêm biên độ dao động tỷ giá lên 1, 2 điểm % nữa) để
đổi lấy việc lãi suất hạ đi thêm một chút.
Tùy thuộc vào
tính toán và cân nhắc của NHNN với lựa chọn nào mà nền kinh tế sẽ được hưởng
lãi suất thấp hay không. Nhưng ít ra có thể thấy trong thời gian còn lại của
năm thì lựa chọn thứ nhất (lãi suất hạ đi nhưng VND mất giá thêm) không phải là
lựa chọn ưa thích của NHNN, và do đó lãi suất chắc chắn sẽ không thể giảm đi được
trong thời gian mấy tháng tới.
No comments:
Post a Comment