Tuesday, 24 November 2015

TPP làm khó Nhà nước

http://www.thesaigontimes.vn/138636/TPP-lam-kho-Nha-nuoc.html


Nhiều người tưởng ở Việt Nam chỉ có những doanh nghiệp và cá nhân hoạt động trong những ngành kinh tế lâu nay được bảo hộ chặt chẽ bởi hàng rào thuế quan và phi thuế quan thì sẽ bị ảnh hưởng mạnh khi TPP có hiệu lực. Thực ra không chỉ thế. Nhà nước cũng ngại TPP!


Có khá nhiều yêu cầu mà TPP “làm khó” Nhà nước, bài này chỉ “nhặt” ra hai yêu cầu điển hình. Đó là yêu cầu Nhà nước phải minh bạch hóa, công khai hóa các quy trình, thủ tục luật lệ; và Nhà nước không được tùy ý ra quy định, thích ban hành văn bản pháp luật thế nào cũng được.


Đầu tiên là nói đến nguyên tắc minh bạch hóa, công khai hóa, được nhấn mạnh ở hầu hết các chương trong TPP. Lấy ví dụ về chương Quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại, một trong những “điểm đen” của Việt Nam trong con mắt của các doanh nghiệp, cá nhân cả trong nước lẫn nước ngoài. Chương này quy định các nước thành viên đảm bảo thủ tục hải quan của mình là minh bạch, nhất quán và có thể dự báo được. Theo hướng này, các nước thành viên phải công bố các quy định, luật lệ và thủ tục hải quan trên mạng, và bằng cả tiếng Anh nếu có thể. Họ cũng sẽ phải công bố các đầu mối liên lạc để sẵn sàng giải đáp các vướng mắc của giới doanh nghiệp.
 
Cứ giả thiết rằng Hải quan Việt Nam sẵn sàng tuân thủ một cách tự nguyện, tự giác và tích cực điều khoản này thì ngay chuyện dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh một “rừng” các thủ tục và quy định rồi công bố đầy đủ trên trang web của mình đã và sẽ là việc không dễ. Thử vào trang web của Tổng cục Hải quan, dễ dàng thấy khác biệt lớn về nội dung giữa hai phiên bản tiếng Việt và tiếng Anh (ở những mục, ví dụ, như văn bản pháp luật, trong khi bản tiếng Việt có đến hàng trăm văn bản thì tiếng Anh chỉ có mỗi một văn bản pháp luật ban hành năm 2015).
 
Về đường dây nóng, bản tiếng Việt có cả một danh sách các đường dây nóng về Ban chỉ đạo 389 quốc gia, về chống tiêu cực của đội giám sát kiểm tra, chống gian lận thương mại, hỗ trợ thủ tục, quản lý rủi ro, trong khi bản tiếng Anh thì chỉ có đường dây nóng cho hai vấn đề là gian lận thương mại và quản lý rủi ro (không lẽ đối với người nước ngoài thì không có chuyện tiêu cực hải quan nên không cần đường dây nóng về chống tiêu cực?). Tổng cục Hải quan là nơi mà thông tin bằng tiếng Anh là cực kỳ quan trọng mà tình hình còn như vậy thì không biết ở những cơ quan nhà nước khác thì tình hình sẽ còn tệ đến đâu nữa?
 
Tiếp theo, TPP luôn nhấn mạnh trong nhiều chương các nguyên tắc cốt lõi như đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, tiếp cận thị trường, theo đó mọi chủ thể kinh tế trong và ngoài nước đều phải được đối xử công bằng, không thiên vị, không tùy tiện theo ý chí của Nhà nước. Trên các nguyên tắc này, Nhà nước sẽ không còn được tùy ý làm những việc` tưởng như hiển nhiên được làm như đối xử thiên vị, ưu ái riêng cho các doanh nghiệp nhà nước. Chẳng hạn, trong lĩnh vực thương mại, Nhà nước sẽ không còn được phép để cho các tổng công ty lương thực gần như được độc quyền một mình một chợ trong xuất khẩu gạo cả nước, được hưởng những đặc quyền đặc lợi như vay vốn không lãi suất để thu mua lúa, chế biến và xuất khẩu gạo...
 
Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, Nhà nước cũng sẽ không được ưu ái riêng cho các ngân hàng có vốn nhà nước như được tiếp nhận các nguồn vốn ODA, vốn chính phủ với lãi suất thấp, và những ưu đãi khác, đổi lại Nhà nước sẽ “trưng dụng” các ngân hàng này trong một số “nhiệm vụ chính trị” nào đó như vẫn xảy ra từ trước đến nay.
 
Hay như chuyện NHNN đang kiến nghị Quốc hội và Chính phủ trao thêm nhiều quyền hạn và cơ chế đặc thù cho Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) để giúp nó thực hiện được tốt chức năng của mình là xử lý và làm giảm nợ xấu trong hệ thống ngân hàng cũng cần phải được xem xét lại vào thời điểm trước thềm TPP như hiện nay. Lý do là, nếu ưu ái riêng cho VAMC những cơ chế và ưu đãi thì đây chính là một hành vi đối xử thiên vị, bất công một cách công khai đối với các tổ chức quản lý tài sản (AMC) khác hiện có và sẽ có của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính vốn cũng đang thực hiện cùng một chức năng là xử lý nợ xấu cho các ngân hàng thương mại.
 
Sự vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cốt lõi của TPP như thế sẽ có thể là nguyên nhân cho một ai đó có quyền lợi liên đới bị ảnh hưởng bởi hoạt động của VAMC đứng lên khởi kiện Chính phủ Việt Nam ra tòa vì đã phân biệt đối xử.


Tóm lại, với sự “vào cuộc” của TPP thì ngay đến các cơ quan công quyền nhà nước cũng sẽ bị tác động mạnh và buộc phải thay đổi tư duy quản lý, điều hành nền kinh tế, cũng như lề thói làm việc hiện nay để theo kịp những đòi hỏi của TPP nếu không muốn trở thành “nạn nhân” của cái hiệp định thương mại tự do mang tính thế kỷ này.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).