Sunday, 21 January 2018

Hạ lãi suất không đơn giản (Bài đăng trên TBKTSG, 21/1/2018)


http://www.thesaigontimes.vn/267960/Ha-lai-suat-khong-don-gian.html


Bước sang năm mới, Thủ tướng đã đặt nhiệm vụ cho ngành ngân hàng phấn đấu giảm tiếp lãi suất cho vay để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Bối cảnh của yêu cầu này có lẽ là tăng trưởng tín dụng hợp lý, lạm phát được kiểm soát khá tốt, tỷ giá ổn định, nợ xấu được tăng cường xử lý nhờ Nghị quyết tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCTD) và xử lý nợ xấu của Quốc hội năm 2017… Đây là những yếu tố được kỳ vọng có thể giúp hệ thống ngân hàng giảm lãi suất cho vay.
Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà mới gần đây, và cũng như mọi khi, mấy ngân hàng “quốc doanh” gồm Vietcombank, Vietinbank và Agribank hầu như cùng lúc công bố kế hoạch giảm lãi suất cho vay, trong khi một số ngân hàng thương mại cổ phần lại có động thái tăng lãi suất huy động (và tức là khó mà hạ lãi suất cho vay, nếu không muốn nói ngược lại).
Các hành động đan xen trái chiều liên quan đến lãi suất như trên cho thấy việc hạ lãi suất cho vay sẽ là việc không dễ dàng, dù rằng có những yếu tố hỗ trợ như nói ở trên. Thực tế là đã có nhiều thời điểm trong các năm trước đây khi Chính phủ yêu cầu ngành ngân hàng giảm lãi suất cho vay thì lập tức các ngân hàng “quốc doanh” đều hầu như đồng loạt công bố kế hoạch giảm lãi suất trong một động thái rất đáng thắc mắc mà có người cho là kết quả của một sự “đạo diễn”.
Đáng nói hơn là kế hoạch hạ lãi suất cho vay của những ngân hàng này thường xuyên chỉ là dành cho những đối tượng ưu tiên, vốn chỉ chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng dư nợ tín dụng của các ngân hàng, chứ không phải cho tất cả các khách hàng vay, trên diện rộng. Điều này nếu được xét trên góc độ bài toán chi phí và lợi nhuận của ngân hàng thì cũng hoàn toàn hợp lý vì khi cho vay các lĩnh vực và đối tượng ưu tiên các ngân hàng vẫn phải sử dụng nguồn vốn huy động chung, chứ hầu như không được ưu tiên một nguồn vốn “giá rẻ” nào đó, ví dụ như từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có lãi suất ưu đãi. Nói cách khác, khi phải dành (thêm) một nguồn vốn nhất định cho vay các lĩnh vực ưu tiên với lãi suất thấp, các ngân hàng, về nguyên tắc, sẽ phải giảm (thêm) nguồn vốn cho vay dành cho các lĩnh vực và đối tượng còn lại, vốn có lãi suất cho vay (và lợi nhuận) cao hơn. Điều này cũng có nghĩa là việc công bố kế hoạch giảm lãi suất cho vay của các ngân hàng “quốc doanh” cũng vẫn chỉ là hành động mang tính bề nổi, hướng ứng (do “đạo diễn”?) là nhiều, chứ không đi vào thực chất và không xuất phát từ thực tế.
Xét trên khía cạnh vĩ mô, điều kiện để hạ lãi suất cho vay trên diện rộng phải là sự kết hợp của hành động nới lỏng cung tiền của NHNN và nhu cầu tín dụng yếu. Thế nhưng trên thực tế, NHNN đã và đang trở nên rất tỉnh táo, thận trọng (một cách đúng đắn) vói tăng trưởng cung tiền và tín dụng. Điều này thể hiện ở tốc độ tăng trưởng cung tiền M2 luôn thấp hơn đáng kể tăng trưởng tín dụng, và tăng trưởng tín dụng thì được kiểm soát ở mức trên 18% một chút trong năm 2017, thậm chí còn thấp hơn năm 2016, mặc dù Chính phủ trong năm đã nhiều lần yêu cầu NHNN đẩy tăng trưởng tín dụng cao hơn, thậm chí đến 21%-22% khi tốc độ tăng trưởng GDP có khả năng không đạt kế hoạch 6,7%.
Về nhu cầu tín dụng, cần lưu ý rằng tăng trưởng tín dụng được kiểm soát ở mức 18% năm qua là nhờ NHNN (theo báo cáo) đã giám sát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng từng TCTD, hạn chế cho vay những lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán và BOT… Nếu không, như những năm trước, chúng ta rất có thể đã “được” chứng kiến một năm, một thời kỳ bùng nổ tăng trưởng tín dụng mới, nếu NHNN tuân theo chỉ đạo của Chính phủ. Nêu thực tế này để nói lên rằng nhu cầu tín dụng ở Việt Nam thật ra là/phải rất lớn, lớn hơn nhiều so với con số báo cáo chính thức. Như thế, kết hợp với chuyện NHNN thận trọng với cung tiền, có thể nói giữ nguyên được mặt bằng lãi suất trong năm qua (và năm nay) cũng đã là một thành công, chứ chưa nói đến nhiệm vụ “bất khả thi” là hạ lãi suất cho vay.
Cũng cần nói thêm về những yếu tố hỗ trợ giảm lãi suất như nêu ở phần đầu bài. Lạm phát đúng là đã được kiềm chế khá thành công trong năm qua nhưng ngay cả Chính phủ cũng phải đặt kỳ vọng một mức lạm phát cao hơn trong năm 2018 này. Kỳ vọng lạm phát cao hơn có nghĩa là dư địa tăng cung tiền để hạ lãi suất sẽ phải giảm đi. Hơn nữa, có lẽ mục tiêu lạm phát năm nay được xây dựng trên kỳ vọng NHNN tiếp tục thận trọng với tăng cung tiền và tăng trưởng tín dụng. Bởi vậy, nếu chạy theo mục hạ lãi suất (trên diện rộng) thì NHNN sẽ buộc phải nới lỏng tiền tệ thêm, dẫn đến tăng áp lực lạm phát, ảnh hưởng ngược lại mục tiêu theo đuổi là giảm lãi suất cho vay.
Về sự ổn định của tỉ giá, điều này có được là nhờ nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, từ chuyện NHNN thận trọng với cung tiền, đến chuyện đô la Mỹ đã suy yếu so với nhiều ngoại tệ và chuyện Việt Nam đã có một năm may mắn đón nhận nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài dồi dào… Bởi vậy, sự ổn định này không phải là điều nghiễm nhiên, tất yếu sẽ có được, mà sẽ trở thành bất định một khi một hoặc nhiều yếu tố này thay đổi. Bởi vậy, sẽ là rất rủi ro nếu lập kế hoạch (giảm lãi suất cho vay) mà lại dựa vào những giả định không chắc chắn, những yếu tố bất trắc.
Trên hết, việc quá chú trọng vào giảm lãi suất cho vay như là một tiền để, một điều kiện cần để “thúc” tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh hiện nay xem ra không còn hoàn toàn thích hợp nữa. Bởi, mặc dù lãi suất không giảm (đáng kể, trên diện rộng) trong năm qua, và mặc dù tăng trưởng tín dụng không phải là đột biến, nhưng tăng trưởng GDP vẫn đã có một năm thành công ngoạn mục, ngoài kỳ vọng.
Do đó, thay vì “nỗ lực”, “phấn đấu” thực hiện nhiệm vụ khó khăn là giảm lãi suất mà nhiều khi phải trả bằng giá đắt nếu bất cẩn, điều nên làm (trong mọi hoàn cảnh) và hoàn toàn khả thi là thực hiện các giải pháp “mềm” –  tiếp tục cải cách, gỡ các nút thắt, các hạn chế đến tăng trưởng – thay vì các giải pháp “cứng” như nới lỏng tiền tệ hoặc dùng mệnh lệnh hành chính để “đạo diễn” một phong trào hạ lãi suất cho vay, vốn mang tính “diễn” là nhiều hơn.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).