Monday, 26 February 2018

Vụ khách hàng bị mất tiền ở Eximbank, lỗi trước tiên vẫn thuộc về ngân hàng (Bài đăng trên CafeF, 27/2/2018, bản gốc)

http://cafef.vn/chuyen-gia-vu-khach-hang-bi-mat-tien-o-eximbank-loi-truoc-tien-van-thuoc-ve-ngan-hang-20180227120053352.chn

Một khách hàng VIP của Eximbank đã bị một cán bộ lãnh đạo chi nhánh của ngân hàng này chiếm đoạt 245 tỷ đồng từ năm 2014.
Đáng nói là dường như ngân hàng này mới phát hiện ra vụ việc vào năm 2017. Điều này là suy từ thông tin trên báo chí: “Đến năm 2017, khi phát hiện sự việc, Eximbank đã chủ động gặp bà Bình để tìm hướng tháo gỡ và cũng chính nhà băng này tố cáo ông Hưng ra cơ quan điều tra C44” (1).

Do người đại diện của Eximbank đã thừa nhận rằng “Vụ lừa đảo là có thật” (1), cũng như trách nhiệm không thể thoái thác với khoản tiền bị đánh cắp này: “Eximbank không có chủ trương trì hoãn hay né tránh trách nhiệm trả lại tiền cho khách hàng” (2), nên trước tiên cần phải chỉ ra sự yếu kém (nếu không phải là vô trách nhiệm) trong hệ thống quản trị hoạt động và phòng ngừa rủi ro của ngân hàng này khi đã để cho một vụ việc nghiêm trọng như vậy xảy ra nhưng không được phát hiện và giải quyết kịp thời và ổn thỏa trong suốt cả mấy năm sau đó. Thậm chí, nghi can chính của vụ việc vẫn còn làm việc bình thường cho đến tận tháng 2/2017 là thời điểm người này xin nghỉ việc tại Eximbank rồi bỏ trốn khỏi Việt Nam (3). Chỉ riêng hai chuyện này, nếu đúng như vậy, đã là quá đủ để Eximbank phải chủ động nhận lỗi và bồi thường thỏa đáng cho người bị hại mà không cần phải để vụ việc vỡ lở, có thể gây hậu quả trầm trọng hơn cả về tài chính lẫn uy tín của ngân hàng này.

Nhưng đáng tiếc là ngân hàng này đã bỏ lỡ thời điểm thuận lợi nhất để thương lượng với người bị hại một khoản đền bù thích hợp nhằm không những giảm thiểu thiệt hại về tài chính cho ngân hàng  mà còn làm giảm những thiệt hại khó có thể đo đếm bằng tiền khác như sứt mẻ uy tín và phơi bầy rõ những yếu kém trong hoạt động của mình khi vụ việc bị vỡ lở, công khai cho báo chí và người dân biết.

Dù có thể còn nhiều chi tiết không được biết rõ ràng nhưng sự yếu kém (hoặc vô trách nhiệm) của ngân hàng này là nguồn gốc của vụ việc nên họ không thể thoát được trách nhiệm, dù có đưa ra một số lý do biện minh không có giá trị như khách hàng chỉ muốn tiếp xúc với một mình nghi can.  Ngay cả lý do Eximbank là ngân hàng niêm yết nên tuân thủ các quy định của một công ty niêm yết cũng là không xác đáng khi bản thân những người điều hành ngân hàng nếu nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề thì cần chủ động giải quyết ổn thỏa trong phạm vi quyền hạn hợp pháp của mình mà không cần phải chờ báo cáo hay giải trình với cổ đông.


Cũng cần lưu ý thêm là khi cơ quan chức năng hoặc tòa án đã ra những phán quyết bất lợi cho ngân hàng thì dù cổ đông của ngân hàng không đồng ý thì ngân hàng vẫn phải chấp hành những phán quyết này. Do đó, việc Eximbank viện dẫn chuyện phải giải trình với cổ đông như là lý do để không giải quyết vụ việc sớm hơn cũng là không hợp lý. Mà cho dù thực sự cần thiết phải như vậy thì tại sao ban lãnh đạo ngân hàng này đã không báo cáo vấn đề trong các đại hội cổ đông vừa qua hoặc không tổ chức những đại hội cổ đông bất thường để có hướng xử lý vụ việc này?
Bởi vậy, có thể nói là Eximbank không thương lượng (thành công) với khách hàng để đạt được một mức bồi thường ổn thỏa, ít gây tổn hại nhất cho Eximbank trên nhiều mặt đã, đang và sẽ tiếp tục gây tổn hại cho ngân hàng. Để vụ việc vỡ lở và phải mang nhau ra đến tòa thì trước mắt hậu quả đã thấy ngay là vốn hóa của ngân hàng này đã “bốc hơi” tới gần 500 tỷ đồng ngày 23/2. Và rốt cuộc thì việc bồi thường sẽ cũng vẫn cứ phải xảy ra, bởi vì nguồn gốc của vụ việc bắt nguồn từ sự yếu kém của ngân hàng mà nhờ đó nhân viên của họ mới có thể lừa đảo được một cách dễ dàng như vậy.
Ngoài ra, cũng cần nói thêm rằng những sai lầm và lỗ hổng trong quản trị của ngân hàng như nói ở trên nếu là ở nước ngoài sẽ là những vi phạm nghiêm trọng các quy định kiểm soát hoạt động nội bộ, có thể dẫn đến những hình phạt nghiêm khắc của pháp luật khi để xảy ra hoặc có thể dẫn đến hậu quả lớn cho khách hàng, cho bản thân ngân hàng và cho toàn bộ hệ thống. Nên ở đây cũng cần đặt vấn đề về trách nhiệm liên đới của cơ quan quản lý chức năng khi đã để xảy ra liên tục những vụ việc tương tự (nhân viên ngân hàng lừa đảo khách hàng) ở Việt Nam trong vài năm qua mà đã không có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn, ngoài việc mới đây chỉ gửi văn bản yêu cầu các tổ chức tín dụng tăng cường an toàn tiền gửi, một hành động quá muộn và chỉ là hình thức.
---------------------
(1) https://news.zing.vn/pho-giam-doc-cn-eximbank-chiem-245-ty-cua-khach-hang-roi-bien-mat-post820974.html
(2) http://cafef.vn/vu-pho-giam-doc-eximbank-cuom-301-ti-bo-tron-nguoi-bi-hai-len-tieng-20180223132940891.chn
(3) http://doanhnghiepvn.vn/von-hoa-eximbank-giam-gan-500-ty-sau-tin-mot-sep-chi-nhanh-om-tien-bo-tron-d119163.htm

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).