Sunday, 1 April 2018

Định giá không hợp lý thì mang nhau ra tòa (Bài đăng trên TBKTSG, 1/4/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/270670/Dinh-gia-khong-hop-ly-thi-mang-nhau-ra-toa.html

Cho đến nay tại Việt Nam có không ít vụ việc lùm xùm liên quan đến việc định giá tài sản để phục vụ cho việc đầu tư, đặc biệt là khi liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước hoặc có vốn nhà nước. Điển hình gần đây nhất là vụ việc Mobifone mua AVG và Sabeco thoái vốn tại dự án đất vàng tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong cả hai vụ việc này các cơ quan chức năng đã vạch ra những sai lầm, thiếu sót trong việc định giá tài sản, cổ phần, dẫn đến khả năng gây thiệt hại lớn cho ngân sách nhà nước.
Vì thiệt hại cho ngân sách nhà nước là điều khó có thể tránh khỏi nên các công ty cung cấp dịch vụ định giá liên đới trong những vụ việc này không thể phủi tay, rũ trách nhiệm. Ngoài ra, việc truy trách nhiệm những công ty này còn tạo ra những tiền lệ mang tính răn đe những công ty cung cấp dịch vụ định giá khác, buộc chúng phải hoạt động chuyên nghiệp hơn với chất lượng cao hơn trên tinh thần trung lập và có trách nhiệm cao với dịch vụ của mình. Xử lý nghiêm những vụ việc sai phạm có nguồn gốc từ (cố tình) định giá sai giá trị tài sản cũng là một kênh hữu hiệu góp phần thúc đẩy cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước, cũng như phòng chống tham nhũng, thất thoát từ việc cổ phần hóa, thoái vốn, hoặc đầu tư có yếu tố nhà nước.
Nhưng vấn đề đặt ra là cần truy trách nhiệm và xử lý những công ty định giá trong các vụ việc này như thế nào. Tuy đây là một vấn đề gần như không có tiền lệ ở Việt Nam nhưng điều này không có nghĩa là cơ quan chức năng nhà nước sẽ mặc nhiên tiến hành các biện pháp hành chính như phạt tiền, tước giấy phép hoạt động của các công ty liên đới hoặc hình sự hóa các vụ việc này.
Ở nước ngoài, cách thức xử lý các vụ việc nảy sinh từ vấn đề định giá tài sản, kể cả khi liên quan đến nhà nước, thường là mang tính kinh tế, thông qua kênh tố tụng dân sự để buộc các công ty định giá phải bồi thường khi chứng tỏ được là chúng đã (cố tình) làm sai.
Vụ Chính phủ Mỹ kiện S&P là một ví dụ phù hợp và có tính chất tương thích trong trường hợp này, mặc dù S&P không phải là một công ty định giá tài sản, mà là một hãng xếp hạng tín nhiệm. Hồi đầu năm 2013, Bộ Tư pháp Mỹ cáo buộc S&P có trách nhiệm trong việc gây thiệt hại hàng nhiều tỷ đô la Mỹ cho nhà đầu tư trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, do hãng này đã thổi phồng xếp hạng tín nhiệm các loại chứng khoán thế chấp bằng bất động sản nhằm có thêm nhiều thương vụ kinh doanh mới, từ đó làm lợi cho các nhà phát hành. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp Mỹ đòi S&P phải bồi thường 5 tỷ đô la Mỹ.
Phản ứng lại, S&P tuyên bố kết quả xếp hạng của mình được bảo vệ bởi quyền được tự do phát biểu, và cáo buộc ngược lại rằng cáo buộc của Bộ Tư pháp Mỹ là một hành động trả đũa do hãng này đã hạ xếp hạng tín nhiệm của Chính phủ Mỹ.
Tuy nhiên, sau hàng loạt thương lượng, đến đầu năm 2015 S&P đồng ý chi trả 1,5 tỷ đô la để khép lại các vụ kiện bởi Bộ Tư pháp và chính quyền ở nhiều bang. S&P cũng đồng ý chi trả 125 triệu đô la cho Quỹ hưu trí California với cùng lý do.
Trong những thương vụ giữa các công ty tư nhân hoặc cá nhân khác, nếu có bên nào đó cho là mình bị hại bởi kết quả định giá tài sản không chính xác thì nơi và người giải quyết cũng vẫn là tòa án.
Năm trước, cũng tại Mỹ, một chủ bất động sản đã kiện công ty bất động sản online Zilow vì cho rằng công cụ “Zestimate” gây lùm xùm của công ty này đã luôn định giá thấp hơn giá trị thật bất động sản của mình, làm cản trở lớn đến việc bán nhà của người này. Người chủ muốn bán bất động sản của mình ở vị trí đẹp với  giá 626 ngàn đô la, gần bằng giá bà mua năm 2009. Nhà đối diện ở bên kia đường lớn hơn một chút nhưng được bán với giá cao hơn nhà bà 100 ngàn đô la. Tuy nhiên, hệ thống định giá tự động của Zilow lại sử dụng giá nhà mới hoàn thiện ở những vị trí kém hơn trong cùng địa hạt để làm giá so sánh, và đưa ra cái giá chỉ là 562 ngàn cho nhà bà này. Bà kiện Zilow để buộc công ty này hoặc phải bỏ công cụ Zestimate hoặc phải sửa đổi nó.
Zilow đã bác bỏ cáo buộc “vô lý” này, cho rằng công cụ này được xây dựng bằng “công thức đặc quyền”, là công cụ kiếm ăn chủ yếu của công ty vì đã được sử dụng rộng rãi để định giá cho hàng trăm triệu bất động sản khắp nước Mỹ và qua đó thu tiền bán quảng cáo.
Nhưng nhiều công ty bất động sản và định giá khác cũng lên tiếng phê phán Zilow bởi nhiều trường hợp giá của Zilow đưa ra quá chênh lệch với giá họ đưa ra và giá mua bán thực tế, làm rối người tiêu dùng. Bản thân Zilow cũng thừa nhận có sai sót. Và tuy không thừa nhận là “nhà định giá” nhưng Zestimate lại ước tính giá bất động sản, tức là đã kinh doanh không phép. Bởi vậy, Zilow rơi vào thế bất lợi và nếu bị xử thua thì rất có thể có nhiều người tiêu dùng ở các nơi khác tiếp tục lôi công ty này ra tòa.
Quay trở lại với các trường hợp liên quan, có yếu tổ nhà nước ở Việt Nam. Với Mobifone, giả sử “không may” mà thương vụ mua AVG suôn sẻ và chỉ sau này thì vấn đề định giá thổi phồng AVG mới được đặt ra. Lúc này, ngoài chuyện xử lý trách nhiệm hình sự cho những sai phạm, cố ý làm trái của Mobifone và các bộ liên đới, điều có thể và cần làm là cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước của Mobifone (tức Bộ Thông tin và Truyền thông) đứng ra kiện các công ty định giá AVG vì đã thổi phồng giá trị của AVG, gây thiệt hại cho nhà nước.
Tương tự, đại diện phần vốn nhà nước của Sabeco (tức Bộ Công thương) có thể đứng ra kiện công ty định giá với cáo buộc đã dùng các phương pháp và cách thức định giá không thích hợp (gồm có việc điều chỉnh các yếu tố khác biệt không trên cơ sở chứng cứ thị trường, theo ý kiến trong báo cáo của Kiểm toán Nhà nước), làm giảm đáng kể giá trị doanh nghiệp làm cơ sở xác định giá khởi điểm.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).