Monday, 30 December 2019

Moody’s hạ triển vọng tín nhiệm của Việt Nam: Hệ quả mới, bài học cũ (Bài đăng trên TBKTSG, 27/12/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/298636/moody’s-ha-trien-vong-tin-nhiem-cua-viet-nam-he-qua-moi-bai-hoc-cu-.html

Ngày 18/12/2019, hãng  xếp hạng tín nhiệm Moody’s thông báo xác nhận giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam ở mức Ba3, nhưng đồng thời hạ triển vọng tín nhiệm của Việt Nam từ mức “Ổn định” xuống mức “Tiêu cực”, kết thúc quá trình xem xét hạ hạng tín nhiệm của Việt Nam trong vòng ba tháng, được Moody’s công bố vào ngày 9/10/2019. (1)               

Như đã biết, động thái xem xét của Moody’s vào ngày 9/10/2019 được kích hoạt bởi những khiếm khuyết về thể chế, liên quan đến những khoản chi trả chậm trễ đối với một nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ Việt Nam. Với việc xác nhận của Moody’s vào ngày 18/12 như nói trên thì Việt Nam có thể tạm thời thở phào rằng việc chậm chễ trong nghĩa vụ trả nợ, dù chỉ là nợ dự phòng, đã may mắn không dẫn đến việc Việt Nam bị hạ hạng tín nhiệm như cảnh báo của Moody’s. Lý do giúp tránh được việc bị tụt hạng tín nhiệm, theo Moody’s, là do chính quyền đã chú tâm hơn đến việc thanh toán sắp tới cho mọi nghĩa vụ nợ của Chính phủ, dù là trực tiếp hay gián tiếp, làm giảm rủi ro tái phát sinh sự chi trả chậm chễ.

Nhìn lại mình trước

Về phía nội bộ Việt Nam, điều đáng lưu tâm là mặc dù lỗi của các bộ, cơ quan chức năng đã bộc lộ rành rành như vậy, như đã bị Thủ tướng phê bình, yêu cầu rút kinh nghiệm, kiểm điểm (2), nhưng Bộ Tài chính vẫn đưa ra những ý kiến bao biện và vô lý như Moody’s hạ triển vọng tín nhiệm chỉ dựa trên sự việc riêng lẻ với nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ mà bỏ qua thành tựu toàn diện trong phát triển kinh tế - xã hội, là "không xác đáng". Bộ này cũng cho rằng việc Moody’s cho biết tiếp tục theo dõi hồ sơ tín dụng của Việt Nam (với triển vọng “Tiêu cực”) "không tương xứng" với nỗ lực của Chính phủ nhằm cải thiện công tác phối hợp hành chính trong việc thanh toán nghĩa vụ nợ dự phòng, đảm bảo không gây tổn thất cho bên cho vay. (3) 

Với phản ứng nói trên, xem ra Bộ Tài chính muốn lái dư luận theo hướng Moody’s đã “thiên lệch” khi chỉ dựa trên “sự việc riêng lẻ” với nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ, trong khi như đã được phân tích ở một bài viết trên TBKTSG trước đây, (4) dù chỉ là “sự việc riêng lẻ”, dù chỉ là “nợ dự phòng” thì với các hãng xếp hạng tín nhiệm độc lập, có uy tín trên thế giới, việc không chi trả đúng hạn vẫn bị coi là vỡ nợ, mất khả năng thanh toán và con nợ sẽ bị đánh tụt hạng tín nhiệm. Nói cách khác, mục đích chính của Bộ Tài chính xem ra chỉ là muốn làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình với tư cách là một cơ quan đầu mối trong việc quản lý nợ quốc gia vì đã để xảy ra sự việc đáng tiếc này.

Về chuyện Bộ Tài chính cho rằng việc Moody’s tiếp tục theo dõi hồ sơ tín dụng của Việt Nam với triển vọng “Tiêu cực” là “không tương xứng” với nỗ lực của Chính phủ cải thiện công tác phối hợp hành chính trong việc thanh toán nợ dự phòng, cần nói ngay rằng bộ này phải thấy là vẫn còn may  mắn khi Moody’s chính vì đã thấy có sự cải thiện này mà “nương tay” không hạ hạng tín nhiệm của Việt Nam như dự định ban đầu, mà chỉ hạ triển vọng xếp hạng tín nhiệm. Nên việc nói vớt vát thế này, nếu thật sự Bộ Tài chính thấy oan ức, “không xác đáng”, chỉ cho thấy thái độ “điếc không sợ súng” của bộ này mà thôi.

Bài học

Việt Nam đã chút nữa thì học thêm được một bài học đắt giá về sự trì trệ, quan liêu, kém hiệu quả của bộ máy hành chính từ trên trung ương xuống địa phương có thể gây ra những hậu quả tai hại như thế nào.

Việc Thủ tướng yêu cầu các bộ kiểm điểm, rút kinh nghiệm tuy có giúp xác định rõ nguyên nhân và trách nhiệm nằm ở đâu (mà không phải là do sự “không xác đáng” của Moody’s), nhưng không thể khỏa lấp thực tế rằng sự vô trách nhiệm, kém cỏi của các bộ từ lâu nay đã và đang được thể hiện hàng ngày, hàng giờ trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, với một vài ví dụ minh họa điển hình như chậm chễ trong giải ngân đầu tư công, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp... bất chấp đủ loại yêu cầu, thúc giục, chỉ đạo, đe dọa của các cấp đảng, chính quyền từ cấp cao nhất. 

Tuy vẫn biết rằng những sự vô trách nhiệm, kém cỏi của bộ máy hành chính, quản trị nhà nước như hiện nay sẽ còn tiếp tục mang đến cho Việt Nam nhiều bài học đắt giá khác nhưng cứ căn cứ vào những gì đang xảy ra thì xem ra cái mà người ta nhìn thấy nhiều hơn là sự bế tắc, bất lực chứ không có mấy sự khai thông, cải thiện.

Nếu trả lời câu hỏi để tránh phải “gặt hái” những bài học đắt giá thế này thì phải làm gì bằng việc nêu những giải pháp đại loại như cải cách bộ máy hành chính, tuyển dụng “nhân tài”... thì e rằng những giải pháp chung chung như vậy sẽ chẳng dẫn đến đâu như đã được xác nhận bởi thực tiễn; mọi lý do cho sự bất lực sẽ được quy về một mối là “tại cơ chế”.

Nên chi bằng hãy bắt đầu bằng việc tạo “thói quen” cho “cơ chế” biết chấp nhận và “quyết liệt” với việc cách chức, phế truất người đứng đầu mọi cấp liên đới đến vụ việc để có ai đó biết sợ mà tự biết mình phải làm gì và như thế nào, cần phối hợp với ai... để không bị mất chức.

Tiếc là việc tạo “thói quen” này cho ”cơ chế” dường như chưa bao giờ là một dự định nghiêm túc!    

----------------

(1) https://www.moodys.com/research/Moodys-confirms-Vietnams-ratings-at-Ba3-changes-outlook-to-negative--PR_414142

(2) https://vnexpress.net/kinh-doanh/thu-tuong-yeu-cau-kiem-diem-cac-bo-de-viet-nam-bi-ha-tin-nhiem-4030599.html

(3) https://vnexpress.net/kinh-doanh/moody-s-ha-trien-vong-tin-nhiem-cua-viet-nam-4029507.html

(4) https://www.thesaigontimes.vn/295480/dong-thai-cua-moody’s-voi-viet-nam-hieu-dung-de-hanh-dong-dung-.html 

Monday, 9 December 2019

Nhiều cấm đoán hơn về hoạt động thẻ tín dụng: có khả thi? (Bài đăng trên TBKTSG, 9/12/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/297721/nhieu-cam-doan-hon-ve-hoat-dong-the-tin-dung-co-kha-thi.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến cho dự thảo thông tư sửa đổi một số điều tại Thông tư 19/2016 quy định về hoạt động thẻ ngân hàng. Theo đó, dự thảo sẽ có nhiều cấm đoán hơn về hoạt động của thẻ ATM và thẻ tín dụng do cả ngân hàng và công ty tài chính phát hành.


Cấm để cho có?

Một nội dung cấm đáng lưu ý là cấm sử dụng thẻ để thanh toán ra nước ngoài cho các giao dịch kinh doanh, mua bán ngoại tệ, chứng khoán trên sàn thương mại điện tử nước ngoài; sử dụng thẻ để thực hiện các giao dịch cho các mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo, gian lận và các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Hiển nhiên là những hoạt động thẻ nói trên nên/cần bị cấm vì đều là những hoạt động làm phương hại đến an ninh, an toàn kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, điều đáng nói là ai, và làm thế nào để xác định được các giao dịch thuộc dạng cấm nói trên và xử lý như thế nào? Nếu dự thảo không đưa ra chi tiết các biện pháp xác định và phòng chống hữu hiệu với cơ quan tổ chức thực hiện cụ thể thì có thể nói ngay rằng quy định như vậy trong dự thảo chỉ là để cho có, nói cho hay, cho tròn trách nhiệm mà thôi.

Về phạm vi sử dụng thẻ tín dụng, dự thảo quy định thẻ tín dụng chỉ được sử dụng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ; nạp, rút tiền mặt theo thỏa thuận giữa chủ thẻ với tổ chức phát hành thẻ. Thử hỏi, còn có loại hình giao dịch nào liên quan đến thẻ tín dụng ngoài thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ để bị cấm như nêu trong dự thảo? Giả sử chủ thẻ dùng thẻ tín dụng tiến hành một giao dịch phi thanh toán, dưới dạng chuyển tiền cho một người nào đó nhưng dưới vỏ bọc là thanh toán tiền mua dịch vụ của người này thì liệu giao dịch này có bị cấm, và nếu bị cấm thì trước hết ai và làm sao để phát hiện, làm sao để chứng minh đây là giao dịch khống/bị cấm? 


Tự mâu thuẫn, đào thải
Như nêu ở trên, dự thảo cho phép nạp, rút tiền mặt theo thỏa thuận giữa chủ thẻ với tổ chức phát hành thẻ. Nói cách khác, nếu giữa tổ chức phát hành thẻ (ngân hàng) và chủ thẻ có một thỏa thuận (về việc rút tiền, chuyển tiền) thì việc này là hợp pháp, được công nhận bởi dự thảo.

Nhưng mặt khác, dự thảo lại có những quy định cụ thể nhằm ngăn chặn việc rút tiền mặt qua thẻ hoặc ngân hàng chuyển tiền từ thẻ tín dụng vào tài khoản cá nhân (1). Như vậy, cùng một việc rút tiền mặt, dự thảo lúc thì cho phép, lúc thì cấm đoán. Vậy phải hiểu thế nào cho đúng đây?
Ngoài ra, dự thảo quy định các tổ chức cung cấp dịch vụ thẻ triển khai các biện pháp kiểm soát, ngăn chặn (từ chối giao dịch, từ chối thanh toán thẻ, chấm dứt hợp đồng thanh toán), không cho phép lợi dụng thẻ tín dụng để sử dụng vào các mục đích không đúng quy định, nhằm kiểm soát hiện tượng các ngân hàng thương mại chuyển tiền từ thẻ tín dụng vào tài khoản cá nhân, không đúng với quy định hiện hành. Quy định lúng túng, khiên cưỡng kiểu này cho thấy trước sự bất hiệu quả bởi NHNN để cho ngân hàng thương mại tự kiểm soát, ngăn chặn các hành vi chuyển tiền của... chính ngân hàng thương mại đó!

Phải chứng minh sự nguy hại
NHNN đã tỏ ra rất “quan ngại” với việc rút tiền mặt qua thẻ và chuyển tiền từ tài khoản thẻ tín dụng vào tài khoản cá nhân. Sự lo ngại này được chính thức đề cập đến bằng những điều khoản cụ thể trong dự thảo. Báo chí thì tiếp tục hưởng ứng bằng việc nêu (lại) những trường hợp “người thực việc thực” liên quan đến việc rút tiền khống và chuyển tiền này với “tông” giọng cũng rất “quan ngại”, nhưng lại không chỉ ra được rằng hành vi này đã dẫn đến hậu quả gì.

Trên hết, cho đến nay vẫn chưa thấy có bất cứ diễn giải thuyết phục nào cho thấy việc rút tiền mặt qua thẻ và chuyển tiền từ tài khoản thẻ tín dụng vào tài khoản cá nhân lại gây ra một mối nguy hại đáng kể cụ thể nào đó cho trật tự kinh tế, xã hội từ phía nhà làm luật, giới chuyên gia cũng như người trong ngành. Như đã được đề cập đến trong một bài viết trên TBKTSG (2), nếu có chăng thì chỉ là một vài diễn giải, quan điểm khá mơ hồ, thiếu thuyết phục để cần thiết phải cấm đoán nghiêm ngặt các hành vi này.
Vì vậy, trước khi muốn đặt ra ngoài vòng pháp luật các hành vi rút tiền khống và chuyển tiền nêu trên như trong dự thảo thì NHNN cần thiết phải có giải trình chính thức, đầy đủ và xác đáng tại sao những hành vi trên cần phải bị cấm. Rất tiếc, cho đến nay, NHNN dường như vẫn chưa có một giải trình chính thức như vậy trước công luận cũng như trước các cơ quan hữu quan.

Nếu không, sự cấm đoán, luật hóa này chỉ phản ánh ý chí một chiều của nhà làm luật mà thiếu đi sự hiểu biết cần thiết, sự tham khảo thực tiễn các nước trên thế giới, và quan trọng hơn là sẽ bị vô hiệu hóa trên thực tế bởi đi ngược lại nhu cầu xác đáng của nhiều người trong xã hội.
(1) http://cafef.vn/siet-the-tin-dung-thong-diep-manh-tay-tu-ngan-hang-nha-nuoc-20191201075622109.chn
(2) https://www.thesaigontimes.vn/td/292460/chi-khong-cho-vay-qua-the-tin-dung-dang-lo-toi-dau.html

Saturday, 7 December 2019

Tín dụng gì cũng phải mang tính thương mại (Bài đăng trên TBKTSG bản in, số 48-2019)


Ở các nước đang phát triển, một trong các vấn đề nổi cộm là chính sách tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ, và hộ gia đình để tạo công ăn việc làm, xóa đói, giảm nghèo. Việt Nam với hình thái xã hội “định hướng xã hội chủ nghĩa” thì càng không chỉ đặc biệt coi trọng vấn đề này mà còn cả vấn đề cho vay “theo định hướng”, theo chỉ đạo để chứng tỏ đó là một ưu việt hơn hẳn các hình thái xã hội khác.

Cho vay theo chỉ đạo qua các ngân hàng thương mại đã để lại nhiều hậu quả

Cho vay theo định hướng, theo chỉ đạo có thể diễn ra với các ngân hàng thương mại nói chung (NHTM). Mô thức chung là nhà nước đưa ra một chương trình, đối tượng cho vay ưu tiên nào đó và “khuyến khích” các NHTM tham gia, hưởng ứng. Thông thường, những đối tượng vay vốn trong các chương trình này thuộc dạng dưới chuẩn nên tất nhiên là nếu nhà nước chỉ hô hào, khuyến khích không thôi thì sẽ không có ngân hàng nào tự nguyện cho vay các đối tượng này, do rủi ro mất vốn là rất cao. Bởi vậy, để việc cho vay được diễn ra hanh thông theo ý chí, nhà nước buộc phải đưa ra những đảm bảo, cam kết và/hoặc đãi ngộ đặc biệt cho các NHTM hưởng ứng lời kêu gọi của mình dưới dạng, ví dụ, bù lãi suất, miễn, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với lãi suất và điều kiện ưu đãi...

Với đầu vào được bảo đảm như vậy, hậu quả tất yếu là các NHTM sẽ mất đi động lực xét duyệt, thẩm định con nợ và khoản vay, theo dõi sử dụng vốn vay và trả nợ. Thậm chí còn xảy ra tình trạng “đục nước béo cò”, với sự trục lợi của cán bộ tín dụng ngân hàng (bắt tay với con nợ).   

Trên thực tế, thật hiếm thấy một chủ trương cho vay theo chỉ đạo, theo sự định hướng, vận động, khuyến khích của Chính phủ và các cơ quan chủ quản như NHNN nào đó lại thành công (mà không để lại “tì vết”, hậu quả lớn cho ngân sách). Điều này được minh họa qua các thảm họa mang tính đại diện như chương trình mía đường, xi măng lò đứng, đánh bắt xa bờ, chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, phát triển sân bay, cảng biển...

Cho vay định hướng qua các ngân hàng chuyên biệt cũng nhiều vấn đề

Việc khuyến khích, động viên của nhà nước trong cho vay theo định hướng không phải lúc nào cũng được hưởng ứng nhiệt liệt và “hết mình” bởi các NHTM vì những rủi ro đi kèm với loại hình cho vay kiểu này không thể dễ dàng mà “đẩy” hết cho NHNN “gánh”, ít nhất thì cũng bởi độ chễ chính sách, hoặc bị rơi vào tình trạng “chờ được mạ thì má đã sưng”.

Do đó, nhà nước đã cho lập ra các ngân hàng chuyên để phục vụ mục đích này. Đó là Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) và Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB). Điểm chung của hai ngân hàng này là đều là ngân hàng phi lợi nhuận, được nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 0%, và không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi.

Hai ngân hàng này có một số khác biệt. Về nguồn vốn, VDB được nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý. Về đối tượng phục vụ, VDB tập trung vào các hoạt động tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất khẩu của nhà nước được Chính phủ và Thủ tướng quyết định, trong khi NHCSXH có nhiệm vụ thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác (1).

Tuy cùng là ngân hàng phi lợi nhuận, phục vụ ý chí của nhà nước nhưng kết quả hoạt động dưới góc độ bảo toàn vốn nhà nước giữa hai ngân hàng này lại rất khác nhau. Như báo chí đã loan tải, VDB hoạt động thua lỗ nặng, bị âm vốn ở mức độ lớn với tỷ lệ nợ xấu cao (tại thời điểm 12/2018 là 17,2% tổng dư nợ). Trái ngược với VDB, NHCSXH lại có mức nợ xấu rất thấp (thường xuyên dưới 1% tổng dư nợ), trong khi tổng dư nợ lại rất lớn (đạt hơn 200 nghìn tỷ đồng tính đến 30/9/20190.

Việc VDB thua lỗ, gây thiệt hại lớn cho ngân sách nhà nước là điều hoàn toàn không bất ngờ, đã được đoán trước từ mô hình hoạt động mà cả đầu vào và đầu ra được nhà nước “bao” (ở mức độ cao hơn nhiều) như với trường hợp các NHTM tham gia các chương trình cho vay theo định hướng của nhà nước như đã nói ở phần trên. 

Vậy điều bất ngờ đáng nói ở đây là kết quả hoạt động của NHCSXH lại trái ngược với VDB, không đúng như “tiếng xấu” dành cho loại hình ngân hàng hoạt động theo định hướng của nhà nước. Do đó, câu hỏi liên quan được đặt ra ở đây là tại sao cùng là loại  hình tín dụng duy ý chí nhưng loại hình này thì thành công còn loại hình kia lại thua lỗ nặng nề? Điều gì tạo nên sự khác biệt này?

Vẫn phải mang tính thương mại

So sánh đối tượng phục vụ của hai ngân hàng, có thể thấy quy mô tín dụng càng lớn thì tỷ lệ nợ xấu, thua lỗ, thất thoát cũng càng lớn. Điều này là tất yếu bởi quy mô khoản cho vay càng lớn có nghĩa là rủi ro tín dụng tập trung càng lớn, nên khi một con nợ mất khả năng thanh toán sẽ làm tăng vọt tỷ lệ nợ xấu của VDB lên. Trong khi ở NHCSXH, các khoản cho vay thường chỉ vài triệu đến vài chục triệu cho một khoản vay/người vay trong hàng vạn khoản vay/người vay, nên tỷ lệ nợ xấu đương nhiên sẽ ở mức thấp hơn nếu các điều kiện khác không thay đổi. Bởi vậy, điểm thứ nhất có thể rút ra là với các ngân hàng cho vay theo chỉ đạo, để hạn chế nợ xấu và cụt vốn thì cần phải giảm thiểu rủi ro cho vay tập trung vốn, tức bằng cách giảm quy mô cho vay với từng con nợ.

Điểm thứ hai tạo ra sự khác biệt trong kết quả hoạt động của hai ngân hàng là sự bảo trợ, bảo hộ, giám sát, đôn đốc trả nợ. Với NHCSXH, thông qua công tác ủy thác cho vay qua các tổ chức hội, đoàn thể như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân..., người vay tiềm năng được được bình xét và giới thiệu vay vốn (như một hình thức bảo lãnh không chính thức). Kết hợp với khoản vay nhỏ, người vay trong một cơ chế “kèm cặp tại gia” chặt chẽ như vậy muốn “xù” nợ cũng khó. Việc cho vay và trả nợ do đó thường diễn ra suôn sẻ, ít phát sinh vấn đề hơn.

Với mô hình cho vay của VDB, quan hệ tín dụng diễn ra hầu như chỉ giữa hai bên, ngân hàng và người vay. Trong khi đó, như đã nói, nhà nước “bao” cả đầu vào và đầu ra cho VDB, với đầu vào là nguồn vốn được nhà nước lo, cứ hụt lại được bơm đầy (nhờ được bù lãi suất và chi phí quản lý), và đầu ra là các đối tượng theo chỉ đạo cho vay mà ngân hàng nhiều khi không thể nói không dù muốn. Trong có chế cho vay đó, thật dễ để để cho cả người cho vay và kẻ đi vay coi tín dụng theo chỉ đạo là con bò sữa tha hồ mà vắt mà không phải gánh chịu trách nhiệm gì, thua lỗ đã có nhà nước gánh chịu. Vì thế, những yếu tố thương mại làm căn cứ để xét duyệt cho vay thông thường cần phải có với mọi khoản tín dụng thương mại đều bị xem nhẹ, bỏ qua. Việc cho vay vốn cứ thế mà triển khai mà chẳng cần phải bận tâm mấy đến lịch sử tín dụng của con nợ, có bảo lãnh/tài sản bảo đảm hay không, sử dụng vốn có đúng mục đích hay không... Thực trạng này càng trầm trọng thêm nếu những người có trách nhiệm ở ngân hàng có động cơ trục lợi, cố tình nhắm mắt bỏ qua – một rủi ro khó có thể loại trừ.

Như vậy, nếu phải so sánh hai mô hình NHCSXH và VDB, tuy cùng là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, phi lợi nhuận, và cho vay theo chỉ đạo, định hướng, điều mang lại thành công cho NHCSXH là quy mô khoản vay nhỏ, không được nhà nước “bao” lãi suất và phí quản lý, được lựa chọn khách vay (thông qua ủy thác cho và hợp tác với hội đoàn cơ sở để giới thiệu và đôn đốc con nợ). Nói cách khác, cho dù là cho vay theo chính sách, về cơ chế có thể nói NHCSXH vẫn phải vận hành và quản lý tín dụng và con nợ như một ngân hàng thương mại thông thường khác nếu không muốn bị thua lỗ, cụt vốn (và không được bù đắp bởi ngân sách). Ở đây xin không bàn đến chất lượng và mức độ “trong sạch”, cũng như phương châm hoạt động của đội ngũ quản lý ở hai ngân hàng.

Trên hết, phải tiến tới chấm dứt cho vay theo chỉ đạo

Nếu áp dụng nguyên tắc hoạt động mang tính thương mại hơn (với quy mô cho vay nhỏ) của NHCSXH cho VDB, sẽ dẫn đến hậu quả là nhiều con nợ tiềm năng sẽ không được vay vốn ưu đãi của VDB để rồi các định hướng chính sách sẽ không được thực hiện, làm cho mô hình này tự phủ nhận, và đây sẽ là cơ sở để nhiều người phản đối cải tổ mô hình hoạt động của VDB. Đến đây sự việc tỏ ra bế tắc.

Nhưng cần suy nghĩ rộng hơn ra bên ngoài cái hộp. Sự thất bại và tai tiếng của VDB như hiện thời có phần nguyên nhân quan trọng là thực tế những chỉ đạo cho vay từ các cơ quan có thẩm quyền phần lớn rất duy ý chí, định thay thế thị trường để điều tiết các nguồn lực nhằm hướng đến một cái đích tưởng tượng nào đó. Để tránh điều này, nhà nước cần giảm thiểu mọi định hướng và chỉ đạo, đặc biệt liên quan đến tín dụng ngân hàng.

Nếu vẫn cứ muốn duy trì VDB để tăng cường tín dụng theo định hướng thì hãy cải tổ nó thành một NHTM nhà nước với đầu vào là nguồn vốn ưu đãi của nhà nước, đầu ra tuy tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích phát triển nhưng phải theo các nguyên tắc hoạt động của NHTM thông thường (trong việc lựa chọn, xét duyệt cho vay và theo dõi, thu hồi nợ). Ban lãnh đạo VDB nếu không điều hành ngân hàng với phương châm bảo toàn vốn thì cần bị xử lý, thay thế ngay khi chưa quá muộn.
(1) https://bizlive.vn/ngan-hang/hai-thai-cuc-no-xau-o-hai-mo-hinh-ngan-hang-viet-nam-3524268.html

Wednesday, 4 December 2019

Liên tục "hành động mạnh", Ngân hàng Nhà nước đang nhắm đến đích gì? (Bài đăng trên CafeF, 3/12/2019)

http://cafef.vn/lien-tuc-hanh-dong-manh-ngan-hang-nha-nuoc-dang-nham-den-dich-gi-20191203080749546.chn

Trong thời gian ngắn gần đây Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã liên tục có những động thái chính sách liên quan đến tiền tệ, ngân hàng. Cụ thể, tiếp nối sau động thái hạ 0,25 điểm phần trăm một số lãi suất điều hành trong tháng 9, NHNN hồi tháng 10 quyết định cắt giảm trần lãi suất cả huy động lẫn cho vay đối với các tổ chức tín dụng. Trung tuần tháng này, NHNN hạ 0,5 điểm phần trăm lãi suất OMO. Và mới hôm qua 02/12 NHNN lại ban hành các quyết định lãi suất đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng (TCTD) theo hướng giảm đáng kể (giảm 0,4 điểm phần trăm so với mức ban hành hồi tháng 7 là 1,2% đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc VNĐ của TCTD tại NHNN).

Xoay quanh những động thái liên tục của nhà điều hành, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với chuyên gia tài chính TS. Phan Minh Ngọc để hiểu rõ thêm về mục tiêu mà NHNN đang hướng tới.
PV. Thưa ông, có nhiều người cho rằng các động thái về chính sách tiền tệ của NHNN thời gian qua đều nhất quán hướng đến một đích duy nhất là hỗ trợ các ngân hàng và hạ mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế theo định hướng của Thủ tướng đưa ra mới đây, ông nghĩ sao về ý kiến này?
TS. Phan Minh Ngọc: Thực tế không hoàn toàn (đơn giản) như vậy. Bởi các động thái vừa đưa ra của NHNN thực ra không có cùng mục đích, và, do đó, việc hiểu được và hiểu đúng động thái của NHNN không phải là điều dễ dàng (và có lẽ ngay cả NHNN cũng khó có thể cắt nghĩa rõ ràng các động thái của mình).
Ông có thể phân tích cụ thể hơn từng động thái vừa qua của NHNN?
Trước hết là với việc hạ lãi suất điều hành 0,25 điểm phần trăm. Về nguyên tắc, đây chính là một động thái nới lỏng tiền tệ. Nhưng mức cắt giảm lãi suất điều hành như vậy là quá nhỏ (trên mặt bằng lãi suất điều hành các loại 5-7%), đặc biệt là so với mức cắt giảm tương đối ở các nước khu vực (tuy cũng là 0,25% nhưng trên một mặt bằng lãi suất khá thấp 2-3%). Đó là chưa kể NHNN có sẵn lòng cung ứng vốn với lãi suất hạ đi như vậy cho các TCTD hay không là điều chưa được thể hiện rõ ràng.
Như vậy, như đã được phân tích trước đây, việc hạ lãi suất điều hành này của NHNN chỉ mang tính biểu trưng là chính, khó có thể nói rằng chính sách tiền tệ tại Việt Nam đã được nới lỏng. Và theo đó thì cũng khó có thể nói NHNN đã hỗ trợ tích cực hệ thống ngân hàng thương mại qua việc hạ lãi suất này, trừ khi trong tháng này và những tháng tới NHNN lại tiếp tục có những động thái tương tự.
Chuyển sang việc NHNN hạ lãi suất trên thị trường OMO. Mức hạ 0,5 điểm phần trăm tuy là mức hạ đáng kể (thực tế đây là bước giảm lớn nhất trong 5 năm trở lại đây và là lần giảm thứ hai trong năm nay) nhưng lưu ý kênh này đã không hoạt động trong gần 3 tháng trước đó. Như vậy, có thể nói việc hạ lãi suất OMO có chăng chỉ mang tính thời vụ, nhất thời, nhằm "chữa cháy" thanh khoản của hệ thống trong từng thời điểm là chính, chứ không nhất thiết là một phần trong một chuỗi các hành động nhất quán hướng đến mục tiêu là giảm lãi suất và hỗ trợ hệ thống ngân hàng thương mại.
Đến hành động hạ trần lãi suất huy động và cho vay với các TCTD thì bản chất sự việc đã hoàn toàn khác so với các hành động nêu trên. Cụ thể hơn, cần lưu ý rằng việc hạ trần lãi suất thực chất là một biện pháp hành chính mà NHNN áp dụng đối với hệ thống ngân hàng thương mại qua đó (hy vọng) làm giảm được mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế, trong khi NHNN không phải nới lỏng tiền tệ để hạ lãi suất như là một chức năng chính của họ. Nói cách khác, các ngân hàng thương mại phải tự xoay sở, cân đối để  sao cho vẫn giữ chân được khách hàng gửi tiền với lãi suất huy động thấp hơn trong khi phải cắt giảm lãi suất cho vay với một số đối tượng, loại hình. Như thế, thậm chí phải nói ngược lại rằng việc cắt giảm trần lãi suất huy động và cho vay đã và sẽ làm khó (nhiều) TCTD.
Đối với hành động hạ lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc, điều này cũng có tác dụng tương tự như việc hạ trần lãi suất huy động và cho vay ở cái nghĩa là nó sẽ làm khó, chứ không phải làm dễ, cho các TCTD. 
Nhân đây, cần lưu ý rằng hành động này của NHNN là hoàn toàn khác với hành động nới lỏng tiền tệ thông qua việc cắt giảm tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc. Dường như đang có sự nhầm lẫn lớn hiện nay, đánh đồng việc hạ lãi suất trả trên tiền gửi dự trữ bắt buộc của các TCTD tại NHNN với việc NHNN hạ tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc áp dụng với các TCTD.
Khi NHNN hạ lãi suất áp dụng cho các khoản tiền gửi dự trữ và vượt dự trữ bắt buộc của các TCTD thì có nghĩa là TCTD sẽ nhận được ít hơn tiền lãi cho cùng một khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc của mình tại NHNN. Nói cách khác, điều này tương tự như việc NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ, làm số tiền cung ra nền kinh tế giảm đi. Với sự cắt giảm tới 0,4 điểm phần trăm trên mức lãi suất 1,2%, có thể nói sự thắt chặt tiền tệ này của NHNN là rất đáng kể.
Vậy theo ông các chuỗi hành động chính sách mạnh và liên tiếp của NHNN là nhắm tới điều gì?
Xâu chuỗi các hành động chính sách gần đây của NHNN, điều có thể kết luận được ở đây chỉ là NHNN vẫn đang điều hành chính sách tiền tệ trung thành với phương châm từ trước đến này của mình là "thận trọng" (theo hướng thắt chặt nhiều hơn là nới lỏng, để không kích hoạt lạm phát, tỷ giá yếu đi v.v...), "linh hoạt" (sẽ nới ra đôi chút và nhất thời khi việc thắt chặt chính sách tiền tệ gây ra sự căng thẳng quá mức trong thanh khoản), và "đồng bộ" (sử dụng nhiều công cụ lãi suất, và cả tỷ giá).


Monday, 2 December 2019

Từ cuộc chiến pháp lý về libra, nghĩ đến tiền điện tử Việt Nam (Bài đăng trên TBKTSG, 1/12/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/297421/tu-cuoc-chien-phap-ly-ve-libra-nghi-den-tien-dien-tu-viet-nam.html

Hai thành viên Ủy ban Dịch vụ Tài chính và là Nghị sĩ của hai đảng Cộng hòa và Dân chủ tại Texas Garcia và Gooden hôm 21/11 tuần trước đã đề xuất luật mới gọi là ““Managed Stablecoins are Securities Act of 2019”. Theo đó, đồng tiền Libra của Facebook, cùng với các đồng tiền cùng loại có giá trị được coi là ổn định tương đối được gọi là stablecoin, sẽ được coi là chứng khoán và, do đó, sẽ chịu sự giám sát chặt chẽ của luật pháp Mỹ nếu dự luật mới này được thông qua (1).

Tại sao nhà làm luật Mỹ muốn Libra là chứng khoán?

Có lẽ điều này có mối liên hệ với cái gọi là “thất vọng” mà Nghị sĩ Garcia dùng để tóm tắt kết quả buổi điều trần của CEO Facebook Zuckerberg trước Quốc hội Mỹ hồi tháng 10, là nơi mà Garcia mong đợi Zuckerberg trả lời được nhiều câu hỏi của các nghị sĩ. Garcia cũng chính là một trong những nghị sĩ yêu cầu đích thân Zuckerberg phải ra điều trần thay cho các người phó của mình, cho rằng ông này mới là người có các câu trả lời về Libra. Sự thất vọng của Nghị sĩ Garcia cho thấy trong phiên điều trần của mình, Zuckerberg đã không giải trình thuyết phục bản chất của Libra.

Facebook đã luôn phản đối việc coi Libra là một chứng khoán. Trong phiên điều trần hồi tháng 7, trước câu hỏi Libra là gì, có phải là chứng khoán, hàng hóa, hay ETF (một loại quỹ có thể mua bán trên thị trường chứng khoán như một cổ phiếu thông thường), người đứng đầu bộ phận tiền mã hóa của Facebook là Marcus trả lời rằng Libra là một hàng hóa, và phủ nhận nó là chứng khoán hoặc ETF (2). Với câu hỏi Libra giống PayPal, nơi Marcus từng là Chủ tịch, nhiều hơn hay là Western Union, Marcus nói tùy theo giao dịch nhưng thường Libra giống với PayPal hơn. Marcus cũng được trích dẫn khi cho rằng Libra – được gắn giá trị với một số đồng tiền gồm đô la Mỹ - khác biệt hoàn toàn với chứng khoán và các loại tiền mật mã khác như Bitcoin được Marcus coi là “vàng số” (3). 

Như vậy, một khi trong con mắt của giới làm luật, Facebook đã không làm rõ được một cách thuyết phục bản chất của Libra thì tất yếu nó (Libra) cần được đặt dưới sự quản lý, điều tiết của luật tương ứng – luật chứng khoán, là thứ gần nhất về bản chất với Libra. Cần biết thêm rằng Ủy ban Chứng khoán Mỹ tuyên bố việc bán (phát hành) 1,7 tỷ đô la Mỹ tiền điện tử Gram của công ty Telegram năm 2018 là trái pháp luật bởi họ coi đây là chứng khoán (4).

Về phía Facebook, tại sao họ lại cố gắng chứng minh Libra không phải là chứng khoán? Câu trả lời đơn giản là vì họ muốn tránh bị “trói chân trói tay” bởi phải tuân thủ nhiều rào cản luật pháp một khi Libra được coi là chứng khoán. Đây cũng chính là mục đích của các nhà làm luật khi đặt Libra dưới sự điều tiết của luật chứng khoán để bảo vệ người tiêu dùng Mỹ là các khách hàng tiềm năng sử dụng Libra thông qua các quy định tăng cường tính minh bạch của Libra.

Chút liên hệ với Việt Nam

Để làm vợi bất phần nào sự hồ nghi của các nhà làm luật, Facebook cam kết sẽ không tham gia vào bất cứ đợt phát hành Libra nào mà không được sự thông qua của Chính phủ Mỹ. Ngoài ra, với câu hỏi tại phiên điều trần tháng 10 rằng Facebook sẽ làm việc với những cơ quan chức năng nào, Zuckerberg nói rằng họ cam kết sẽ xin phép từ những cơ quan chức năng nào có quyền quản lý với Libra.

Những cam kết tương tự của Zuckerberg cũng được đưa ra bởi Marcus trong phiên điều trần tháng 7. Tuy nhiên, Nghị sĩ Walters của đảng Dân chủ trong phiên điều trần đã thẳng thừng nói với Marcus rằng hoàn toàn không nên phát hành Libra bởi việc tạo ra một đồng tiền mới là một chức năng chủ chốt của Chính phủ. Đồng thời, nghị sĩ này cũng khuyến nghị ít nhất thì Facebook cũng phải phát hành thí điểm ở quy mô nhỏ với sự giám sát chặt chẽ của Chính phủ (5).

Đối chiếu chuyện phát hành Libra ở Mỹ với chủ trương phát hành tiền di động, tiền điện tử ở Việt Nam, chuyện đáng nói trước tiên là sự minh bạch chưa được làm rõ về bản chất của các loại tiền này. Những loại tiền này, theo như một dự thảo mới đây của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), dường như là những loại tiền tệ mới, không phải tiền đồng, được phát hành riêng rẽ bởi các tổ chức không phải là NHNN. Như vậy, cũng giống như sự phản đối của Nghị sĩ Walters, Việt Nam cần làm rõ liệu có nên cho phép các tổ chức ngoài NHNN được phát hành tiền tệ mới – dưới dạng tiền điện tử, tiền di động – hay không, bởi như đã nói, chức năng phát hành tiền tệ trên lãnh thổ Việt Nam phải là chức năng độc quyền của NHNN.

Tiếp đó, giả sử bằng một cách nào đó và dưới một hình thức nào đó, tiền điện tử/tiền di động vẫn được phép phát hành bởi các tổ chức ngoài NHNN thì việc phát hành này phải được phát hành thí điểm ở quy mô nhỏ trước khi nhân rộng toàn quốc để có được đánh giá đầy đủ hơn về những tác động lợi và hại của chúng lên nền kinh tế, lên sự ổn định kinh tế vĩ mô.

Bên cạnh đó, tùy vào bản chất thực sự của các loại tiền tệ mới này sau khi được làm rõ, chúng cần được đặt dưới sự điều tiết, giám sát chặt chẽ không chỉ bởi NHNN mà có thể còn của Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán theo các luật tương ứng, tương tự như chuyện Libra hay Gram ở Mỹ khi đã được xác định có tính rủi ro như môt loại chứng khoán thì sẽ bị điều tiết bởi luật chứng khoán.

Cuối cùng, cần phải tính đến chuyện nhất quán công nhận, cấp phép và quản lý các doanh nghiệp, tổ chức khác phát hành tiền điện tử và tiền tương-tự-tiền-di động. Cụ thể hơn, một khi đã cấp phép cho doanh nghiệp viễn thông phát hành tiền di động, thì liệu NHNN có sẵn lòng công nhận và cấp phép cho các doanh nghiệp khác được phát hành tiền di động và các loại tiền tương tự hay không, hay chỉ dành sự độc quyền này cho các doanh nghiệp viễn thông, và tại sao?   
--------------------
(1) https://www.theblockcrypto.com/linked/48004/new-bipartisan-bill-would-classify-managed-stablecoins-as-securities
(2) https://www.cnbc.com/2019/07/17/facebook-currency-chief-questioned-at-house-financial-services-hearing.html
(3) https://thetokenist.io/us-senators-facebooks-libra-stablecoins-are-securities-under-existing-law/
(4) https://cointelegraph.com/news/new-bill-would-put-facebooks-libra-stablecoin-under-us-securities-law
(5) https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8051314897353908142

Do lừa đảo sử dụng công nghệ cao hay là do hiểu biết thấp, tham lam? (Bài đăng trên TBKTSG, báo giấy, số 47-2019, ngày 20/11/2019)


Một buổi sáng cách đây vài tháng, người viết đột nhiên nhận được mấy cú gọi nhỡ qua Viber từ một tài khoản có tên “Telecommunications” với cái ảnh là logo của Starhub, và từ tài khoản có tên là “S & H” cũng với logo là Starhub – một hãng viễn thông lớn của Singapore. Ngồi canh một lúc thì tài khoản đầu tiên gọi lại và người viết nhấc máy. Đầu dây bên kia một giọng nói tiếng Anh nghe như người châu Phi tự xưng là người của Starhub, nói ngay người viết là người đăng ký thuê bao với Starhub hoặc Singtel – một hãng viễn thông lớn khác của Singapore – đúng không (kiểu hỏi khẳng định không phải là đàn ông thì ắt phải là đàn bà!), rồi ngay lập tức thông báo rằng người viết đã trúng giải thưởng rút thăm may mắn của hãng Starhub với số tiền đâu như vài trăm ngàn đô la.

Người viết tỏ ra rất hân hoan sung sướng trên máy, nhưng hỏi lại là sao phải cần số tài khoản của người viết. Kẻ bên kia đầu dây nói là để chuyển tiền thưởng vào đó. Người viết lại cắc cớ hỏi lại thế thì tôi đi làm thủ tục lĩnh thưởng trực tiếp với hãng không được hay sao. Kẻ bên kia đầu dây vẫn nhẫn nại nói là phải cung cấp số tài khoản thì mới được lĩnh thưởng, và lặp đi lặp lại số tiền thưởng khủng. 

Đến đây thì người viết hết kiên nhẫn, xả ra mấy từ ngữ không thích hợp lắm rồi cúp máy.

Thời gian này ở Việt Nam rộ lên nhiều vụ (có tính chất) lừa đảo được cho là sử dụng công nghệ cao, và Bộ Công an lên tiếng cảnh báo qua cổng thông tin của bộ này. Loại lừa đảo thứ nhất thì về tính chất là tương tự như đã xảy ra với người viết ở Singapore. Tức là kẻ lừa đảo giả mạo là người của một doanh nghiệp, một cơ quan chức năng nào đó ở Việt Nam gọi cho người bị hại để thông báo là đã trúng thưởng, có bưu phẩm, hoặc đang bị vướng vào một vụ trọng án nào đó để yêu cầu hoặc đe dọa người bị hại cung cấp thông tin thẻ, tài khoản ngân hàng, mã xác thực... Còn loại lừa đảo khác cũng đã trở nên phổ biến thông qua sử dụng sản phẩm tài chính “công nghệ cao” như tiền ảo để chiêu dụ “nhà đầu tư” mua và hưởng lãi từ tiền thu được của nhà đầu tư đến sau.

Với loại hình lừa đảo thứ nhất thì phải nói ngay là thực chất chẳng có tí chút “công nghệ cao” nào ở đây cả, ngoài chuyện bọn tội phạm tạo ra một tài khoản có tên doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, và/hoặc số điện thoại của họ để hiển thị trên máy của người bị hại. Đến đây, nếu vụ lừa đảo chót lọt thì chỉ có thể nói rằng người bị hại đã quá thiếu hiểu biết và/hoặc đã quá tham lam, cộng với sự nhập vai “như thật” của kẻ lừa đảo. Nếu bảo là do tuyên truyền cảnh giác kém để kẻ lừa đảo lộng hành thì cũng chẳng phải bởi báo chí thường đăng tải đầy rẫy những chuyện lừa đảo tương tự và thậm chí còn tinh vi hơn. Do đó, tuy Bộ Công an có mở cổng thông tin cảnh báo hình thức lừa đảo kiểu này là một việc đáng hoan nghênh nhưng e rằng hiệu quả sẽ không như kỳ vọng, chừng nào mà người dân hết... tham, hết thiếu hiểu biết.

Loại hình lừa đảo thứ hai quả là có dính dáng đôi chút đến công nghệ (tài chính) nhưng suy cho cùng một người đủ hiểu biết, đủ tỉnh táo sẽ chẳng bao giờ tin là lại có ai đó tốt đến mức có thiện ý muốn mang đến sự giàu có cho tất cả những ai “người dưng nước lã” miễn là bỏ tiền đầu tư vào sản phẩm của mình để hưởng lãi suất trên trời. Sự xuất hiện của những “chim mồi” càng kích thích tinh thần “làm giầu không khó” này nhưng ngẫm ra thì lòng tham vẫn chi phối, lấn át sự tỉnh táo, không ngoan của “nhà đầu tư”. Người bị hại là người chủ động tham gia chứ không có ai bị dọa dẫm, tống tiền như ở loại hình lừa đảo thứ nhất. Khi lòng tham che mờ mọi thứ thì người ta càng có xu hướng chỉ tìm kiếm những yếu tố củng cố, hậu thuẫn sự hiểu biết, tin tưởng của mình, kiểu như dự án này cũng được tin tưởng đầu tư bởi ca sĩ A, MC B..., mà xem nhẹ hoặc bỏ qua những thông tin có tính bất lợi.

Ngoài ra, đối với loại hình tội phạm lừa đảo thứ hai, lòng tham không chỉ là yếu tố chi phối, xui khiến người bị hại tham gia vào những loại hình đầu tư “nuôi vịt trời” mà còn là yếu tố thúc đẩy người bị hại tiếp tay cho kẻ lừa đảo. Lóa mắt trước những tỷ lệ phần trăm lợi nhuận cao đến khó tin, “nhà đầu tư” không chỉ tự biến mình thành người bị hại mà còn tuyên truyền, lôi kéo, lừa gạt người khác để mong mình không phải là “nhà đầu tư” cuối cùng đổ tiền vào sản phẩm/ứng dụng tài chính để không trở thành “kẻ đổ vỏ”. Bởi vậy, một lần nữa xin được lặp lại rằng Bộ Công an đưa ra cảnh báo với kiểu đầu tư đa cấp trá hình mang tính lừa đảo này là điều cần thiết từ góc độ cơ quan chức năng nhưng chỉ điều này không thôi thì sẽ không có mấy tác dụng ngăn chặn những hành vi lừa đảo tương tự bởi vẫn sẽ có nhiều người sẵn sàng bất chấp mọi rủi ro để tự nguyện, tự giác tham gia.

Để góp phần hạn chế, có lẽ đã đến lúc phải áp đặt trách nhiệm hình sự lên cả phía người bị hại nào có hành vi tuyên truyền, mời gọi, lừa gạt người khác tham gia, gây thiệt hại cho họ. Điều này sẽ hạn chế sự lan tỏa, rẽ nhánh của các đường dây đầu tư đa cấp lừa đảo dù là vào sản phẩm tài chính “công nghệ cao” hay không.

Monday, 18 November 2019

Rối rắm tiền di động, tiền điện tử (Bài đăng trên TBKTSG, 18/11/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/296826/Roi-ram-tien-di-dong-tien-dien-tu.html/#286881


Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang đưa ra lấy ý kiến dự thảo Nghị định quy định về thanh toán không dùng tiền mặt. Một trong những điểm nổi cộm thu hút sự chú ý của dư luận là định nghĩa về tiền di động.


Là tiền và cũng không phải là tiền?


Theo dự thảo, tiền di động được định nghĩa là tiền điện tử do tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán kinh doanh dịch vụ viễn thông phát hành và định danh khách hàng thông qua cơ sở dữ liệu thuê bao di động. Với định nghĩa này, tiền di động được hiểu nôm na là một loại/hình thức tiền tệ.


Mặt khác, tiền điện tử được định nghĩa trong cùng dự thảo là “giá trị tiền tệ lưu trữ trên các phương tiện điện tử được trả trước bởi khách hàng cho ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để thực hiện giao dịch thanh toán và được đảm bảo giá trị tương ứng tại ngân hàng, bao gồm: thẻ trả trước, ví điện tử, tiền di động”.


Nếu lồng ghép khái niệm tiền di động vào khái niệm tiền điện tử như trong dự thảo thì sẽ được một định nghĩa sau: “Tiền di động là giá trị tiền tệ lưu trữ trên các phương tiện điện tử...”. Như vậy, theo định nghĩa kiểu này thì rõ ràng tiền di động lại không phải là một loại/hình thức tiền tệ, mà chỉ là một đại lượng thể hiện/thước đo giá trị của tiền tệ lưu trữ trên các phương tiện điện tử. Nhưng nếu chỉ là (thước đo) giá trị thì tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán hay bất cứ tổ chức nào khác cũng không thể “phát hành” được tiền di động, như nêu trong dự thảo. Người ta chỉ có thể phát hành ra đồng tiền nào đó chứ không thể phát hành ra giá trị của đồng tiền đó.


Tương tự, trong dự thảo cũng có nhiều chỗ sử dụng lẫn lộn giữa phạm trù nội dung và hình thức của các khái niệm liên quan. Với ví điện tử, nó được định nghĩa là ‘tiền điện tử do tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phát hành...”, trong khi phải hiểu ví điện tử chỉ là phương tiện lưu trữ tiền điện tử tương tự như một cái ví da đựng tiền mặt, chứ nếu không thì ắt sẽ có nhiều người “phiên dịch” định nghĩa này thành kiểu nếu anh và tôi đều chỉ có một cái ví điện tử thì anh và tôi giàu như nhau, có cùng giá trị tiền tệ (tiền đồng) như nhau.


Với thẻ trả trước cũng vậy, nó được định nghĩa là tiền điện tử do ngân hàng phát hành, dù đúng ra phải chỉ rõ thẻ trả trước chỉ là một công cụ, phương tiện để người ta lưu trữ bao nhiêu tiền điện tử (tiền đồng được số hóa) trong đó mà thôi.


Chính sách tiền tệ sẽ bị mất hiệu lực?


Gạt chuyện nội dung hay hình thức nói trên sang một bên, điều đáng bận tâm hơn nhiều là sự cho phép các tổ chức viễn thông phát hành tiền di động. Nếu coi tiền di động là một loại tiền tệ và cái sự “phát hành” được nêu trong dự thảo cũng mang cái nghĩa tương tự như sự phát hành tiền tệ của NHNN thì tự nhiên Việt Nam có hàng loạt tổ chức tương tự như NHNN cùng có chức năng phát hành tiền tệ. Nói cách khác, lúc này trên lãnh thổ Việt Nam lại có nhiều loại tiền tệ được lưu thông và sử dụng trong thanh toán một cách hợp pháp.


Như thế thì việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN với tiền đồng sẽ trở nên vô tác dụng bởi mỗi khi, ví dụ, NHNN muốn tăng lãi suất tiền đồng để ngăn chặn dòng ngoại hối đổ ra nước ngoài thì lập tức người dân sẽ chuyển sang vay mượn bằng tiền di động, tiền điện tử có chi phí thấp hơn, làm vô hiệu hóa chính sách tiền tệ thắt chặt của NHNN.


Còn nếu lập luận rằng tiền di động cũng là tiền đồng, do NHNN phát hành và điều tiết, được người tiêu dùng nộp cho công ty viễn thông để đổi lấy tiền di động dùng được “tạo ra” bởi các công ty này để thanh toán trên điện thoại nên sẽ không có ảnh hưởng gì đến hiệu quả của chính sách tiền tệ của NHNN thì lập luận này lại tạo ra một lỗ hổng lớn trong lập luận ủng hộ cho việc phát hành và sử dụng tiền di động.


Cụ thể, tiền di động được cho là giải pháp thanh toán không dùng tiền mặt nên cần được khuyến khích phát triển vì nó sẽ bao phủ cả những nơi người tiêu dùng không tiếp cận được các dịch vụ ngân hàng, không có internet. Nhưng bản thân việc người tiêu dùng phải mang tiền mặt đến công ty viễn thông (hoặc mua thẻ cào) để chuyển đổi sang tiền di động đã vi phạm tiền đề/điều kiện là không dùng tiền mặt!


Tóm lại, NHNN cần sửa đổi lại dự thảo theo hướng quy định rõ tiền điện tử được sử dụng trong thanh toán hợp pháp ở Việt Nam phải là tiền được số hóa từ tiền đồng và việc phát hành phải thông qua nối kết với tài khoản ngân hàng (để đảm bảo nguyên tắc không dùng tiền mặt và đáp ứng các quy định về phòng chống rửa tiền...). Các tổ chức phát hành không chỉ được giới hạn là ngân hàng và tổ chức viễn thông, miễn là được NHNN cấp phép, công nhận.

Thursday, 7 November 2019

Cho vay qua app: Khó cấm, phải tìm cách quản (Bài đăng trên TBKTSG, 7/11/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/296515/cho-vay-qua-app-kho-cam-phai-tim-cach-quan.html

Công an vừa phá một vụ án “cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự” mà các đối tượng đã cho người dân vay với lãi suất đến 4,4%/ngày thông qua app – mọi giao dịch đều được thực hiện qua Internet và điện thoại di động. Nếu đến hạn không trả được nợ thì nhân viên thu hồi nợ sẽ liên tục điện thoại cho người nợ để đòi nợ và/hoặc cho tất cả những người có trong danh bạ điện thoại của người vay để tạo áp lực lên người vay phải trả nợ (1).

“Tiên trách kỷ”

Hiển nhiên là khi nghe đến lãi suất cho vay 4,4%/ngày thì không ai không cảm thấy bất bình cho người “bị hại” và lên án kẻ cho vay nặng lãi theo kiểu “cắt cổ” này và có hướng suy đến sự lừa đảo, lập lờ thông tin để người vay “chui vào tròng” một khi đã vướng vào vay nặng lãi kiểu này.

Tuy nhiên, tỉnh táo mà nhìn lại thì không phải người cho vay qua app (tạm gọi là công ty cho vay) nào cũng là lừa đảo ở cái nghĩa là hoạt động “chui”, không phép, lãi suất cho vay vượt quá mức quy định theo luật pháp, cho vay có tính ép buộc, che giấu thông tin để lừa người vay...

Trong số các công ty cho vay nặng lãi mà Công an công bố như chủ sở hữu của app “Vaytocdo”, “Moreloan”, và “VD Online”, thử tra tìm thông tin về chúng trên Google thì hai cái đầu có website, còn cái thứ ba thì tìm mỏi mắt cũng... chưa thấy. Hai cái có website thì tuyệt nhiên không thấy có bất cứ một thông tin gì về ai là chủ sở hữu, chưa nói gì đến những thứ như địa chỉ, đăng ký kinh doanh... Nói tóm lại, những “công ty” cho vay qua app này đúng là tổ chức “tín dụng đen” ở cái nghĩa là tiến hành hoạt động cho vay không phép, và chỉ riêng hoạt động này thôi đã xứng đáng bị pháp luật sờ gáy, truy tố tội danh tương ứng.

Dẫu vậy, không thể phủ nhận rằng người vay hoàn toàn không bị dụ dỗ theo kiểu bị ép buộc, lừa phỉnh để vay tiền từ những app này. Họ hoàn toàn là những “nạn nhân” chủ động đi vay. Hơn nữa, cũng không thể nói khi đi vay, họ không biết gì về những khoản phí và lãi suất, bởi các mức này được thông báo rõ trước khi người vay ấn nút xác nhận (2). Do đó, đã để đến mức “vỡ nợ”, bị quấy rối bởi những kẻ đòi nợ (thuê) thì người vay trước tiên phải tự trách mình vì đã quyết định vay, dù biết vay sẽ phải trả lãi cao, dễ bị mất khả năng trả nợ, dễ bị đòi nợ qua (ứng dụng trên) điện thoại di động...

Không thể cấm

Sự hoạt động không phép thông qua app của những tổ chức tín dụng đen như trên rõ ràng là cần được ngăn chặn kịp thời. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với mọi công ty/hoạt động cho vay qua app đều là xấu xa, bất hợp pháp, cần bị cấm đoán. Quay trở lại với những trường hợp người vay vừa là “nạn nhân”, vừa là “tòng phạm” tiếp sức cho sự tồn tại của những app tín dụng đen nêu trên, câu hỏi đặt ra là nếu họ không vay từ những app này thì họ sẽ vay ai, ở đâu?

Câu trả lời chung chung thường thấy là hãy tìm đến các ban, ngành, đoàn thể, chính quyền địa phương hoặc trực tiếp đến tổ chức tín dụng, ngân hàng tin cậy để được hỗ trợ (1). Xin nói luôn là những lời khuyên kiểu này chỉ để cho có. Kể cả có suôn sẻ đến đâu thì cũng không tổ chức nào có thể cho vay ngay trong 10 phút, bất kể người vay là ai, ở đâu, làm gì... Cần luôn nhận thức rằng có rất nhiều người chỉ có thể vay ngay, vay được từ các số điện thoại dán trên cột điện, dù ai cũng tỉnh táo, có năng lực dân sự, cũng biết nếu được thì phải vay từ các nguồn chính thống như ngân hàng, tổ chức tín dụng.

Trong bối cảnh này, nếu cấm đoán, thì một bộ phận lớn có nhu cầu chính đáng trong số những người phải vay, chấp nhận vay nặng lãi sẽ rơi vào cảnh còn tuyệt vọng, khốn đốn hơn cả khi chấp nhận vay nặng lãi. Đó là chưa kể các hoạt động tín dụng đen bằng cách này hay cách khác vẫn sẽ luôn tồn tại, bất chấp pháp luật có nghiêm minh đến đâu (xem bài “Tín dụng đen sẽ “trường tồn”!) (3). Bởi vậy, giải pháp phải là đưa những hoạt động cho vay này vào khuôn khổ điều tiết của pháp luật trong chừng mực có thể.

Tìm cách quản

Cũng thử tra tìm trên Google thông tin liên quan sẽ thấy có một số điều “thú vị”. Có một số công ty chủ sở hữu app cho vay có đủ thông tin tối thiểu như đăng ký kinh doanh, địa chỉ liên hệ; trên website thậm chí còn có cả mục Điều kiện và Điều khoản quy định chi tiết về giao dịch cho vay của mình. Như vậy, những thông tin công khai cho thấy công ty này là một thể nhân kinh doanh hợp pháp với dịch vụ cung ứng là (môi giới) cho vay trực tiếp qua app (hoặc trên website).

Trong bối cảnh tín dụng đen không thể dẹp bỏ thì sự tồn tại của những công ty cho vay trực tuyến này rõ ràng là giải pháp đỡ tệ hơn. Nói đỡ tệ hơn bởi đối tượng này vẫn có một số điểm không tốt, cần được điều chỉnh bởi pháp luật đặc biệt liên quan đến bảo mật thông tin và đòi nợ (chứ không phải là về phí và lãi suất, là những điều được công khai mà người vay được biết trước, biết rõ).

Lấy ví dụ với Công ty Tư vấn Tài chính X, chủ của ứng dụng “....Đồng”. Trong phần “Điều kiện và Điều khoản”, đọc thì sẽ thấy là có rất nhiều “cài cắm” tinh vi, có thể nói không quá lời là rất gian manh; toàn bộ rủi ro, bất lợi được công ty gạt hết sang người vay.

Chẳng hạn, điều khoản liên quan đến webstie của công ty quy định công ty có toàn quyền thay đổi bất kỳ tính năng, điều khoản, điều kiện áp dụng với người sử dụng website vào bất kỳ lúc nào, không cần báo trước; mọi thay đổi có hiệu lực ngay khi được cập nhật lên website; mọi dịch vụ hay sản phẩm đang được người dùng sử dụng sẽ phải chấp nhận các thay đổi, cập nhật đó.

Ngoài chuyện lời lẽ mơ hồ, hiểu kiểu gì cũng được, có một điều chắc chắn phải được hiểu đúng (theo ý đồ của công ty) là có một điều khoản nào đó công ty muốn điều chỉnh theo hướng có lợi cho mình thì chỉ việc “cập nhật” nó lên website. Như thế, một điều khoản tương ứng trong “hợp đồng” vay tiền hiện hữu của người vay với/thông  qua công ty rất có thể là không còn đúng như ban đầu nữa mà phải theo điều khoản mới theo hướng bất lợi cho người vay.

Những quy định liên quan đến tính an toàn, chính xác, bảo mật của website và “bất kỳ sản phẩm dịch vụ nào” do công ty cung cấp cũng rất bất lợi cho người vay; công ty hoàn toàn không chịu trách nhiệm với bất cứ vấn đề nào phát sinh có thể gây thiệt hại cho khách hàng, dù rằng có thể lỗi là phía công ty, kể cả khi có virus máy tính liên quan đến các tài liệu, thông tin trên website... 

Tương tự, ngay những chuyện tưởng như hiển nhiên như điều khoản công ty và các đối tác được phép gửi thông tin và hình ảnh của người vay cho các nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ liên quan, được phép liên lạc với người vay, điều mà công ty “cài cắm” chính là câu nèo sau đó rằng: “Vào bất cứ lúc nào bạn không muốn tiếp tục nhận được thông tin liên lạc từ ... Đồng, bạn có thể gọi điện trực tiếp vào số hotline của ... Đồng để nêu ra yêu cầu của mình”. Khi chấp nhận như thế này thì cầm chắc người vay sẽ còn tiếp tục “được” nhận thông tin liên lạc (chắc chắn là gồm nhiều liên lạc không mấy “thú vị” như tin nhắn khủng bố đòi nợ) từ “các đối tác” của công ty vì trong điều khoản chỉ nói là nếu không muốn nhận thông tin liên lạc từ công ty chứ không phải là từ “các đối tác” của công ty mà rất có thể trong đó gồm những kẻ đòi nợ thuê và/hoặc người cho vay thực sự. Hơn nữa, người vay gọi điện đến hotline để nêu ra yêu cầu nhưng sự nêu ra yêu cầu này không đồng nghĩa với việc công ty (và các đối tác) sẽ chấm dứt “thông tin liên lạc” với người vay, bởi đơn giản là chẳng có từ ngữ nào trong điều khoản này nói lên điều này cả!


Như vậy, song song với việc xử lý theo pháp luật các chủ nhân của website, app cho vay bất hợp pháp, nhà nước cần một mặt khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp cho vay trực tuyến/ngang hàng hợp pháp, có đăng ký, nhưng đồng thời phải đưa ra  những quy định và tiêu chuẩn chi tiết về hình thức cho vay này để bảo vệ, hạn chế rủi ro cho người vay qua kênh này (xem thêm bài “Cần sớm quản lý cho vay ngang hàng”) (4), cũng như thắt chặt các quy định về đòi nợ nói chung. 

(1) http://vneconomy.vn/canh-bao-vay-tin-dung-den-qua-app-web-lai-suat-1600--nam-20191101152004135.htm
(2) https://tuoitre.vn/vay-tien-qua-app-qua-nhanh-qua-nguy-hiem-20190703082332659.htm
(3) https://www.thesaigontimes.vn/286445/tin-dung-den-se-truong-ton-.html
(4) https://www.thesaigontimes.vn/279602/can-som-quan-ly-cho-vay-ngang-hang.html

Doanh nghiệp FDI lên sàn: Đừng biến bình thường thành bất thường (Bài đăng trên TBKTSG bản in số 44-2019)

https://www.thesaigontimes.vn/296173/doanh-nghiep-fdi-len-san-dung-bien-binh-thuong-thanh-bat-thuong.html
Theo báo cáo, hiện nay ở Việt Nam đã có một số doanh nghiệp FDI đã chuyển đổi thành công ty cổ phần nhưng chưa có quy định pháp lý cụ thể về việc niêm yết/đăng ký giao dịch. Hiện Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước mới chỉ làm được đến đoạn là “xin ý kiến của các cơ quan, đơn vị liên quan” để sẽ “sớm trình Thủ tướng Chính phủ cơ chế niêm yết/đăng ký giao dịch đối với doanh nghiệp FDI” (1). 


Đồng thời, dù vẫn chưa cho ra đời được cơ chế niêm yết/đăng ký nhưng Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã “lo xa” hơn khi “cũng sẽ có cơ chế phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để thực hiện giám sát sau khi các doanh nghiệp FDI lên sàn”.

Do nghi ngờ?

Lý do của việc chậm chễ, trì hoãn kéo dài, và tuy chưa làm được (chưa ban hành cơ chế niêm yết) nhưng đã lo đến chuyện giám sát này có thể gói gọn trong hai chữ “nghi ngờ”!

Lý do trên có thể được thấy rõ qua trường hợp cụ thể là công ty Seoul Metal Việt Nam (SMV). Theo đó, “SMV được niêm yết cũng gây ra lo ngại cổ đông sáng lập bán cổ phiếu, nhà đầu tư nước ngoài rút vốn” (2). Với những doanh nghiệp FDI khác đã niêm yết, thời gian đầu thì kết quả tốt đẹp nhưng sau này thì thua lỗ, cổ phiếu rơi xuống dưới mệnh giá, thậm chí bị hủy niêm yết..., đã có các giả thuyết đưa ra để giải thích là do chuyển giá, trốn thuế, nhà đầu tư ngoại rút vốn khi doanh nghiệp lên sàn... (1).

Tóm lại, viễn cảnh doanh nghiệp FDI lên sàn rõ ràng không được ít nhất là “thị trường” nhìn nhận một cách thiện cảm. Nếu có lên sàn thì họ sẽ bị nghi ngờ với những động cơ “không trong sáng” và thậm chí sẽ phải chịu nhiều phiền phức, rủi ro sau niêm yết do nhận được sự chú ý trên mức bình thường của cơ quan giám sát, xuất phát từ thành kiến với họ.

“Ngoại” cũng (phải được coi) là “nội”

Nếu quả thực lý do trên là nguyên nhân chính gây ra sự chậm chễ trong ban hành quy định và hướng dẫn doanh nghiệp FDI niêm yết trên sàn chứng khoán thì đây là một điều rất đáng tiếc và đáng trách, thể hiện một nhận thức hạn hẹp, sai lầm rất không phù hợp với bối cảnh thời nay.

Trước hết, cần khẳng định lại là mọi doanh nghiệp đăng ký và hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam, dù là có nguồn gốc FDI, phải được đối xử công bằng như nhau, đặc biệt trong bối cảnh mà Việt Nam đã và đang ký kết các hiệp định tự do hóa thương mại và đầu tư (FTA). Trên cái nghĩa này, nếu doanh nghiệp FDI vẫn còn đang bị đối xử bất công ít nhất từ góc độ niêm yết trên sàn thì nghĩa vụ của Chính phủ là phải lập tức xóa bỏ ngay các đối xử này, để doanh nghiệp FDI được niêm yết theo cách áp dụng với các doanh nghiệp trong nước. Nếu không làm vậy thì hãy chuẩn bị tinh thần để bị kiện cáo vì phân biết đối xử.

Đó là về pháp lý. Còn về lý luận, việc niêm yết chẳng có liên quan gì đến những điều “xấu xí” mà “thị trường” đang đặt ra cho các doanh nghiệp FDI (muốn) niêm yết. Muốn chuyển giá/trốn thuế thì không cần phải đợi niêm yết mới thực hiện được (mà thậm chí là ngược lại thì đúng hơn, bởi khi niêm yết thì doanh nghiệp phải minh bạch thông tin). Hơn nữa, chẳng phải chỉ có doanh nghiệp FDI (niêm yết) mới có (xu hướng) chuyển giá, trốn thuế, mà ngay cả doanh nghiệp nội cũng vậy. Thế nên nếu lo ngại khi niêm yết, doanh nghiệp FDI sẽ trốn thuế/chuyển giá thì cùng một logic, doanh nghiệp nội cũng nên bị cấm/không khuyến khích niêm yết. Và, nói cho cùng, hiện cơ quan chức năng của Việt Nam đã “chỉ mặt” được mấy doanh nghiệp FDI (chưa niêm yết) có hành vi chuyển giá/trốn thuế, hay mới chỉ dừng lại ở những nghi vấn? 

Chủ đầu tư nước ngoài muốn thoái vốn thì cũng không cần phải đợi niêm yết mới thoái được, mà thậm chí là ngược lại thì đúng hơn, bởi lúc đã niêm yết, khi cổ đông lớn muốn thoái vốn thì phải thông báo, nên việc thoái vốn sau khi niêm yết có thể sẽ khó khăn hơn do thị trường hiểu rằng công ty hoặc cổ đông lớn “có vấn đề”, và sẽ không chấp nhận mua cổ phiếu doanh nghiệp, hoặc mua với giá không như cổ đông kỳ vọng. 

Đừng “ngược dòng” một mình!

Xem ra quan niệm tiêu cực về niêm yết của các doanh nghiệp FDI và hậu quả là sự chậm chễ trong niêm yết của các doanh nghiệp này ở Việt Nam như nói trên là trường hợp hãn hữu so với thế giới hiện nay. Nhìn chung, ở các nước khác, muốn niêm yết thì doanh nghiệp, không phân biệt nội hay ngoại, phải và chỉ cần đáp ứng một số điều kiện chung đặt ra bởi thị trường chứng khoán/sàn giao dịch của nơi mà doanh nghiệp muốn niêm yết (thậm chí với những nước có nhiều hơn một sàn giao dịch, như ở Mỹ, thì mỗi sàn giao dịch lại có một bộ các điều kiện khác nhau đối với việc niêm yết).

Ở Singapore, chỉ có hai loại hình doanh nghiệp/công ty chính, gồm công ty tư nhân (private company) và công ty đại chúng (public company). Công ty tư nhân có thể chọn chuyển đổi thành công ty đại chúng và (sau đó) lên sàn nếu thấy việc chuyển đổi và lên sàn có lợi cho mình hơn. Những lợi ích này gồm dễ gọi thêm vốn, làm tăng giá trị nắm giữ, dễ dàng mua bán cổ phần hơn, dễ gây dựng uy tín/hình ảnh doanh nghiệp hơn, dễ dùng cổ phiếu để mua bán, sáp nhập doanh nghiệp khác hơn... Ngược lại, việc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp và niêm yết sẽ đi kèm với nhiều bất lợi, gồm việc phải công khai thông tin, tốn thêm nhiều loại chi phí, dễ bị thôn tính, chịu thêm các quy định và thủ tục... 

Việc chuyển đổi thành công ty đại chúng và/hoặc niêm yết phải thỏa mãn một số điều kiện và tuân theo quy trình chung, thống nhất được quy định rõ ràng, công khai mà chẳng có điều kiện nào áp dụng riêng cho doanh nghiệp (có nguồn gốc) FDI (3). Thậm chí một doanh nghiệp tư nhân có thể bị bắt buộc phải chuyển đổi thành công ty đại chúng khi cơ quan quản lý thấy rằng công ty đó không còn đáp ứng điều kiện để là công ty tư nhân nữa (chẳng hạn như khi số lượng cổ đông của công ty vượt quá ngưỡng quy định là 50). Khi đó, công ty muốn tiếp tục tồn tại và hoạt động thì phải tuân theo quy định như áp dụng đối với công ty đại chúng.

Như vậy, nhìn rộng ra thế giới thì việc “cổ phần hóa” (biến công ty tư nhân thành công ty đại chúng, dù đó là một doanh nghiệp FDI như khái niệm đang được dùng ở Việt Nam) và niêm yết chỉ là một việc hết sức bình thường mà khuôn khổ pháp luật cho nó cần phải có, cần phải tạo dựng và áp dụng với mọi doanh nghiệp thích ứng, ngay khi thị trường chứng khoán ra đời.

Trước một điều bình thường, hiển nhiên và là một thông lệ trên thế giới như vậy, việc phân biệt đối xử, chậm chễ, trì hoãn cho doanh nghiệp FDI sau “cổ phần hóa” ở Việt Nam như hiện nay chẳng có bất cứ lý do gì để biện minh và kéo dài thêm.

(1) http://ndh.vn/som-co-co-che-dua-cac-doanh-nghiep-fdi-len-san-chung-khoan-20190712021346506p4c147.news
(2) http://ndh.vn/cua-nao-len-san-cho-doanh-nghiep-goc-fdi-nhin-tu-truong-hop-seoul-metal-viet-nam--2018062804357992p4c147.news
(3) https://www.3ecpa.com.sg/resources/finances-and-grants/going-for-public-listing-in-singapore

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).