Wednesday 22 April 2020

Cần cụ thể, nhất quán, đơn giản trong hỗ trợ tín dụng (Bài đăng trên TBKTSG, 23/4/2020, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/302748/can-cu-the-nhat-quan-don-gian-trong-ho-tro-tin-dung.html

Ngày 13/3/2020, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư 01/2020 về việc tổ chức tín dụng (TCTD) cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19.

Có thể nói, đây là một hành động kịp thời của NHNN nhằm triển khai chỉ đạo của Thủ tướng kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch. Tuy nhiên, trên thực tế đã có nhiều ý kiến phản hồi của doanh nghiệp về khó khăn khi yêu cầu TCTD áp dụng các quy định của thông tư này, dẫn đến sự hỗ trợ cần thiết đã không đến được tay khách hàng gặp khó khăn (dịch một cách kịp thời).

Quả thật, từ những quy định có trong thông tư có thể thấy khó khăn mà khách hàng phải đối mặt đầu tiên và quan trọng nhất là sự thiếu vắng một định nghĩa và/hoặc hướng dẫn (rõ ràng) về “khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19”.

Vì đây là tiền đề để khách hàng vay vốn TCTD được TCTD xét duyệt và thực thi các giải pháp hỗ trợ như trong thông tư, sự thiếu vắng một định nghĩa/hướng dẫn rõ ràng như vậy sẽ gây ra nhiều tình huống không mong muốn, gồm: (i) TCTD dù thực tâm muốn đồng hành cùng khách hàng vay vốn nhưng không rõ khách hàng có thực sự bị ảnh hưởng của Covid hay không, và có đến mức độ phải hỗ trợ như quy định hay không. Để ra quyết định, TCTD buộc phải dựa vào sự tự chứng minh của khách hàng về những thiệt hại do Covid. Sự thể này sẽ dẫn đến tình trạng kéo dài trong việc xét duyệt hỗ trợ trong khi khách hàng thì có thể đang “ngắc ngoải”; (ii) TCTD “tham lam”, lấy cớ là khách hàng không/chưa chứng minh được mình là nạn nhân của Covid để từ chối hỗ trợ theo yêu cầu của NHNN; (iii) khách hàng dù bị thiệt hại thật sự bởi Covid nhưng không biết cách, không có điều kiện (về giấy tờ, tài liệu...) để chứng minh thiệt hại nên không được TCTD hỗ trợ; (iv) và khách hàng của TCTD lợi dụng Covid-19 để khai rằng mình bị thiệt hại bởi Covid-19 để trục lợi chính sách...

Những tình huống như trên sẽ làm cho một chính sách cần thiết và có ý nghĩa như Thông tư 01 trở nên kém hiệu quả. Do đó, điều cần làm hiện nay là nhanh chóng bổ sung sự khiếm khuyết này. Để sự bổ sung được chặt chẽ, nhất quán và quan trọng không kém là đơn giản, NHNN cần phối hợp chặt chẽ với các bộ khác xác định các ngành nghề bị ảnh hưởng trầm trọng bởi dịch. Những doanh nghiệp trong các nhóm ngành nghề này sẽ tự động được coi là doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi Covid và là đối tượng được hưởng các động thái hỗ trợ của TCTD theo Thông tư 01 mà không cần phải chứng minh sự thiệt hại gây ra bởi Covid.

Khó khăn khác liên quan quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Theo Thông tư 01, trong số các điều kiện để được cơ cấu lại thời hạn trả nợ có điều kiện khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn gốc và/hoặc lãi theo thỏa thuận do ảnh hưởng của dịch. Tương tự như trên, nếu không sửa đổi, bổ sung quy định thì khách hàng thực sự khó khăn vì dịch có thể không được TCTD hỗ trợ. Do đó, cần quy định lại khách hàng trong các ngành bị ảnh hưởng trầm trọng bởi dịch thì sẽ tự động được cơ cấu lại thời hạn trả nợ nếu có yêu cầu, và TCTD không được phép từ chối.

Để tăng thêm phần thực chất, minh bạch và nhất quán, cũng cần xem xét quy định thêm rằng thời hạn cơ cấu lại nợ là đến ngày cụ thể x/y/202z (tất nhiên là không nên dài quá 1 năm), tùy thuộc yêu cầu của khách hàng, để tránh tình trạng TCTD tuy có cơ cấu lại thời hạn trả nợ nhưng chỉ làm cho có, ví dụ như gia hạn thêm 1 tháng, vì Thông tư 01 không có quy định nào ngăn ngừa tình trạng này xảy ra. 

Về phần TCTD, do họ cũng là một doanh nghiệp nên việc dồn trách nhiệm và gánh nặng hỗ trợ cho TCTD là điều không thỏa đáng. Chính phủ nói chung và NHNN nói riêng cần có những động thái hỗ trợ cho chính những TCTD nào có các động thái hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch. Một trong những động thái đó là NHNN cho vay ưu đãi cho TCTD như vậy. Tuy nhiên, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, ví dụ như Singapore, NHNN cần bổ sung yêu cầu rằng TCTD có thể vay vốn ưu đãi từ NHNN nhưng phải chuyển toàn bộ sự ưu đãi về lãi suất này cho doanh nghiệp vay vốn từ TCTD. Ví dụ, TCTD có giá vốn là 4%/năm, đang cho vay doanh nghiệp là 7%/năm. Trong đại dịch, TCTD có thể nộp đơn vay NHNN với lãi suất ưu đãi chẳng hạn là 2%/năm, tiết kiệm được 2%/năm giá vốn. Nhưng TCTD không được phép hưởng lợi từ sự ưu đãi này mà phải chuyển phần tiết kiệm giá vốn 2%/năm này cho doanh nghiệp thông qua việc như giảm lãi suất cho vay khoản vay hiện hành từ 7%/năm xuống còn 5%/năm. Làm như vậy thì TCTD vẫn có lợi là giúp cho khách hàng tăng thêm khả năng sống còn để có thể trả nợ đầy đủ cho TCTD sau này.

Nhân đây xin nói thêm về quy định miễn, giảm lãi, phí, theo đó, TCTD quyết định việc miễn, giảm lãi, phí theo quy định nội bộ. Hiểu theo quy định này thì TCTD có quyền không miễn, giảm lãi, phí cho khách hàng. Đây là một quy định hợp lý, vì như đã nói, TCTD cũng là một doanh nghiệp, phải chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh trước cổ đông. Trừ khi được NHNN hỗ trợ bằng những hình thức như cho vay ưu đãi như nói ở trên, TCTD có quyền từ chối không miễn, giảm lãi, phí cho (nhiều) khách hàng nếu xét thấy cần thiết. Do vậy, các khách hàng vay vốn của TCTD cần hiểu rõ điều này để không quá kỳ vọng, tin tưởng chắc chắn mình sẽ được miễn, giảm lãi, phí nếu yêu cầu, hoặc thắc mắc, khiếu nại một cách không cần thiết rằng tại sao nhà nước đã ra quy định hỗ trợ doanh nghiệp, và doanh nghiệp A, B, C được miễn, giảm lãi, phí mà doanh nghiệp của tôi lại không được...


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).