https://www.thesaigontimes.vn/302511/-nhieu-giai-phap-de-kiem-che-no-xau-thoi-dai-dich.html
Nợ xấu gia tăng
do, ví dụ, các khoản cho vay bị xếp hạng thành nợ khó đòi, không có khả năng
thu hồi, sẽ không chỉ trực tiếp làm thiệt hại về lợi nhuận cho ngân hàng mà còn
gây ra những tác động dây chuyền nghiêm trọng khác. Phải kể đến trong đó là việc
ngân hàng phải để dành thêm vốn trên bảng cân đối tài sản để bù đắp tổn thất nợ
xấu này.
Nếu ngân hàng
không thu xếp đủ vốn dự trữ bù đắp cho nợ xấu thì ngân hàng buộc phải cắt giảm,
thậm chí đóng băng việc cho vay, cấp tín dụng (cho doanh nghiệp và cá nhân
khác). Sức khỏe tài chính của những ngân hàng này sẽ là nguyên nhân để ngân
hàng trung ương và các cơ quan giám sát tiền tệ quốc gia “để mắt” chặt chẽ,
giám sát từng hoạt động và đặt ra các điều kiện nghiêm ngặt để được phép hoạt động
bình thường trở lại.
Về phía con nợ,
khi có nợ thành nợ xấu thì họ sẽ gặp khó khi huy động vốn hoặc vay nợ mới, và
chi phí vay nợ cũng sẽ tăng lên tương ứng với hạng tín nhiệm đi xuống của mình.
Tuy nhiên, đại dịch
Covid-19 hiện nay tất yếu sẽ dẫn đến một kết cục không tránh khỏi là nhiều món
nợ sẽ trở thành nợ xấu, chất lượng tài sản của mọi ngân hàng đi xuống còn nợ xấu
sẽ tăng lên cho hệ thống ngân hàng khắp thế giới. Để kiềm chế và giảm thiểu hậu
quả của những xu hướng tiêu cực này thì cần sự “vào cuộc” của cả hai phía, nhà quản
lý nhà nước và bản thân các ngân hàng thương mại.
Giải pháp từ phía nhà quản lý
Thế nào là nợ xấu
là một vấn đề mang tính chủ quan, phụ thuộc vào định nghĩa của nhà quản lý nhà
nước. Bởi vậy, giải pháp đơn giản và trực tiếp nhất là nới lỏng hoặc sửa lại định
nghĩa và các quy định phân loại nợ xấu để nợ xấu vẫn là... “đẹp” trên sổ sách
các ngân hàng thương mại. Hành động kiểu “đà điểu vùi đầu trong cát” để tránh nguy
hiểm như thế này được dựa trên niềm hy vọng là các con nợ của ngân hàng thương
mại sẽ phục hồi và hoạt động lành mạnh như cũ, khi đại dịch qua đi.
Giải pháp thứ hai
là nhà quản lý cần ban bố lệnh đình trả nợ (gốc và lãi) cho những con nợ “đối mặt
với khó khăn liên quan đến Covid”, trong một thời hạn nhất định, thường là 6
tháng, như hàng loạt ngân hàng trung ương trên thế giới đã và sắp thực hiện. Mục
đích là không đẩy con nợ lún sâu thêm vào khó khăn do thâm hụt dòng tiền, biến
họ từ có khả năng vỡ nợ thành vỡ nợ thật. Điều này còn cho phép ngân hàng
thương mại cơ cấu lại nợ cho con nợ mà không làm phương hại đến việc đánh giá
đúng mực khách hàng, cũng như tránh cho ngân hàng phải ghi nhận tổn thất tín dụng
này vào chi phí hoạt động của mình.
Thứ ba, nhà quản
lý cần nới lỏng các quy định về an toàn vốn tối thiểu, vốn dự trữ để ngân hàng
thương mại có thêm vốn cho vay doanh nghiệp và cá nhân bị ảnh hưởng bởi dịch mà
mục đích cuối cùng vẫn là giữ cho các doanh nghiệp này sống sót để có khả năng
trả nợ. Tuy nhiên, đi kèm đó, cần làm ngân hàng thương mại hiểu rõ rằng phần vốn
được nới lỏng này cần phải được sử dụng để hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân bị ảnh
hưởng bởi dịch chứ không phải là để hỗ trợ chi trả... thưởng hay cổ tức!
Thứ tư, một số
ngân hàng trung ương như của Indonesia còn ra lệnh cho các ngân hàng thương mại
nước này dừng ngày việc dùng dịch vụ đòi nợ để thu hồi nợ từ những con nợ bị ảnh
hưởng của dịch, ít nhất là trong thời điểm hiện tại, như là một phần trong các
biện pháp giúp doanh nghiệp thêm cơ hội tồn tại trong cơn đại dịch.
Ngoài ra, ngân
hàng trung ương của Indonesia còn giảm số lượng tiêu chí đánh giá một khoản vay
có là nợ xấu hay không từ ba (triển vọng kinh doanh, tình hình tài chính, và sự
tuân thủ trả nợ) xuống còn duy nhất một (tuân thủ trả nợ). Nếu vẫn cứ giữ
nguyên ba tiêu chí đánh giá chất lượng nợ như cũ thì nợ của phần lớn doanh nghiệp
sẽ thành nợ xấu dù các doanh nghiệp này vẫn cố gắng trả nợ gốc và lãi đúng hạn,
bởi triển vọng kinh doanh và tình hình tài chính của chúng đều lao dốc trầm trọng
giữa cơn đại dịch.
Thứ năm, chuẩn mực
kế toán IFRS 9 yêu cầu ngân hàng trích dự phòng vốn cho tổn thất tín dụng kỳ vọng
chứ không phải là thực tế. Đại dịch làm cho tác động tiêu cực lên doanh thu và
lợi nhuận của ngân hàng thương mại sẽ xuất hiện sớm hơn bởi nó làm cho chất lượng
tài sản đi xuống. Để giảm thiểu tác động này thì một số ngân hàng trung ương
trên thế giới đã sửa đổi quy định về vốn bổ sung tối thiểu (Trụ cột 2) để ngân
hàng thương mại tiếp tục gia hạn hoặc ngừng áp dụng ngày đến hạn trả nợ (nhằm
giữ nguyên chất lượng khoản vay, tức chất lượng tài sản). Tất nhiên điều kiện để
được nới lỏng là chất lượng khoản vay sẽ bị xấu đi bởi Covid chứ không phải là
hậu quả của hành vi cho vay bất cẩn của ngân hàng thương mại.
Cuối cùng, nhà quản
lý cần thống nhất hành động hỗ trợ một cách đồng bộ từ các ngân hàng thương mại,
đồng thời làm yên lòng các ngân hàng thông qua cam kết sẵn sàng hỗ trợ về vốn,
thanh khoản với tư cách là người cho vay cuối cùng cho các ngân hàng thương mại...
Cho đến nay, Việt
Nam đã thực thi một số trong những giải pháp trên bên cạnh những giải pháp cụ
thể khác. Với giải pháp đình trả nợ gốc và lãi, hiện đang được ngân hàng thương
mại “tùy nghi” áp dụng, ví dụ có ngân hàng thì tuyên bố giảm 1 điểm % lãi suất
các khoản cho vay tiêu dùng... Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nên chính thức yêu cầu
các ngân hàng thực thi đồng bộ việc đình trả nợ này trên toàn hệ thống, xét đến
tác động của giải pháp này như đã nêu ở trên.
Về giải pháp sửa
đổi yêu cầu về vốn bổ sung tối thiểu và trích lập dự phòng, do IFRS 9 mới chỉ
được đề xuất áp dụng ở Việt Nam mấy năm sau theo lộ trình và theo nhóm nên NHNN
có thể xem xét thay thế bằng cách nới lỏng lộ trình áp dụng hay nới lỏng bản
thân quy định về vốn và trích lập dự phòng theo tổn thất thực tế, đã phát sinh
theo tiêu chuẩn kế toán hiện hành. Tất nhiên, do các mức quy định về vốn và
trích lập dự phòng của Việt Nam còn quá thấp và lỏng lẻo so với thế giới, tức đồng
nghĩa với khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng Việt Nam còn quá thấp nên việc
nới lỏng quy định hiện tại càng làm tăng rủi ro cho hệ thống ngân hàng và NHNN càng
phải sẵn sàng can thiệp hỗ trợ như cho vay tái cấp vốn...
Giải pháp từ phía ngân hàng thương mại
Các ngân hàng cần
khẩn trương nhanh chóng xác định các ngành, lĩnh vực và khách hàng bị ảnh hưởng
nhất để có được giải pháp hỗ trợ hữu hiệu nhất. Các giải pháp hỗ trợ cần phải
chính xác, thống nhất, cụ thể.
Thực tế thì nhiều
ngân hàng đã xem xét và thực thi các giải pháp như gia hạn thanh toán và sẵn
sàng cho vay với lãi suất ưu đãi... Nhưng những giải pháp này chỉ là những giải
pháp áp dụng chung cho mọi khách hàng “chịu ảnh hưởng của dịch”.
Điều các ngân
hàng cần làm là khu biệt hóa cơ sở khách hàng để tối đa hóa sự hỗ trợ. Việc này
bao gồm chủ động làm việc với khách hàng để hiểu rõ tình hình của họ; khu biệt
hóa danh mục cho vay dựa vào nhu cầu vay vốn kỳ vọng; tự tìm tòi, phát hiện ra
lĩnh vực nào thì sự hỗ trợ sẽ là hiệu quả nhất; và tiến hành kịp thời các hành
động giảm thiểu rủi ro đối với các khoản vay mất khả năng thanh toán được phát
hiện sớm.
Các ngân hàng thường
thì cũng đã có những giải pháp hỗ trợ này trước đây nhưng tình hình hiện nay
đòi hỏi sự hỗ trợ trên phạm vi địa lý rộng hơn nhiều. Hỗ trợ khách hàng trong
những lúc nghiêm trọng như hiện nay sẽ củng cố vững chắc quan hệ với khách hàng
và tái khẳng định vai trò của ngân hàng như bà đỡ của nền kinh tế.
Với các khoản vay
ưu đãi, ngân hàng thương mại phải có biện
pháp để đảm bảo chắc rằng các khoản vay ưu đãi mà họ đã và sẽ công bố sẽ được
doanh nghiệp sử dụng một cách cẩn trọng để không trở thành nợ xấu khi tình hình
trở lại bình thường.
Với các khoản vay
được đình trả nợ, ngân hàng thương mại cần phải đưa ra một kế hoạch trả nợ phù
hợp để khách hàng có thể trả nợ gốc và lãi sau giai đoạn đình trả nợ này. Khách
hàng cần được làm cho hiểu rõ rằng sự đình trả nợ này chỉ là tạm thời ngừng trả
nợ, chứ không phải là xóa nợ, và sẽ phải trả nợ đầy đủ khi họ đã hồi phục.
Tất nhiên, cuối
cùng thì ngân hàng phải tự đánh giá và chịu trách nhiệm với rủi ro tín dụng của
mình dựa trên mức độ tín nhiệm của khách hàng. Khách hàng nào có nền tảng kinh
doanh vững chắc trước khi nổ ra Covid và hiện phải đối mặt với dòng tiền âm thì
cần được cứu trợ để đứng dậy mạnh mẽ hơn sau dịch, và ngược lại.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ
(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
No comments:
Post a Comment