Mặc dù Ngân hàng
Nhà (NHNN) nước đã hai lần cắt giảm lãi suất chính sách năm nay, hồi tháng 3 và
tháng 5, xuống còn 4,5% (Hình 1, với nguồn số liệu từ Tradingeconomics) nhưng
nhìn chung lãi suất của Việt Nam vẫn thuộc dạng cao trong khu vực, kể cả so với
những nền kinh tế cùng thứ hạng như Philippines, Indonesia hoặc Ấn Độ.
Nhiều cá nhân và tổ chức đã khuyến nghị NHNN tiếp
tục giảm lãi suất chính sách thêm nữa trong bối cảnh lãi suất trong nước vẫn
cao và nhiều nước vẫn đang tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ và thậm chí là
nới lỏng định lượng (ngân hàng trung ương trực tiếp mua trái phiếu Chính phủ) kể
từ đầu năm nay.
Trên thực tế,
không thể chỉ đơn thuần nhìn vào mức chênh lệch lãi suất với các nền kinh tế để
kêu gọi hạ lãi suất ở Việt Nam. Bởi lãi suất có giảm được hay không và bao
nhiêu phụ thuộc trước tiên vào mức lạm phát của Việt Nam so với khu vực và thế
giới.
Như Hình 2 cho thấy, trong khi xu hướng chung khi
đại dịch nổ ra là lạm phát có xu hướng sụt giảm mạnh, thậm chí là tụt xuống dưới
0, nhưng ở một số nước như Việt Nam và Ấn Độ lạm phát vẫn neo ở mức đáng kể,
trên 3%/năm vào các tháng gần đây.
Một điểm đáng lưu
ý trong Hình 2 là đã có một mối liên hệ rõ ràng giữa lạm phát với lãi suất. Những
nước có lạm phát càng thấp, thậm chí là âm như Singapore, Malaysia và Thái Lan
thì lãi suất của họ cũng rơi xuống mức rất thấp.
Indonesia là một
trong số những ngoại lệ. Tuy lạm phát của họ khá thấp trong những tháng gần đây
nhưng lãi suất lại không được cắt giảm tương ứng – chững lại ở mức 4% kể từ lần
điều chỉnh mới nhất hồi tháng 7 năm nay. Điều này là bởi ngân hàng trung ương
nước này lo ngại việc cắt giảm thêm lãi suất chính sách sẽ tiếp tục làm suy yếu
đồng bản tệ nước này, vốn đã giảm 1% giá trị so với USD, trở thành đồng tiền có
kết quả tệ nhất trong khu vực trong tháng 8 nên họ đã quyết định giữ nguyên lãi
suất sau 2 cuộc họp về chính sách trong tháng này.
Như vậy, có thể
thấy tỷ giá cũng là một trong những tham số quan trọng khác để quyết định có cắt
giảm lãi suất hay không. Liên hệ với Việt Nam, khó có thể phủ nhận rằng lãi suất
được cắt giảm có chừng mực là một yếu tố, bên cạnh sự can thiệp trực tiếp vào tỷ
giá (mua vào USD của NHNN), giúp duy trì sự ổn định của tỷ giá USD/VND trong suốt
thời gian qua.
Sự ổn định tỷ giá
có thể là một chính sách ưu tiên của NHNN trong thời gian qua. Sự ổn định này
có thể được nhìn nhận là một biểu hiện thành công trong điều hành chính sách tiền
tệ và tỷ giá của NHNN. Trong bối cảnh Mỹ cáo buộc Việt Nam thao túng tiền tệ
thì NHNN càng có thêm lý do để biện minh cho hành động không nới lỏng thêm quá
mức chính sách tiền tệ (cắt giảm thêm lãi suất điều hành) để tỷ giá suy yếu đi,
bởi làm thế sẽ giúp khẳng định thêm tính chính đáng của lời cáo buộc của Mỹ.
Trong những tháng
tới, liệu NHNN có thể, có nên cắt giảm thêm lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế
không? Câu trả lời trước hết vẫn phải phụ thuộc vào diễn biến của lạm phát ở Việt
Nam trong thời gian tới. Nếu lạm phát tiếp tục có xu hướng dịu đi thì rõ ràng
NHNN sẽ có thêm dư địa để cắt giảm lãi suất hơn nữa.
Dù sự cắt giảm
lãi suất này có thể sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định của tỷ giá, làm tiền đồng mất
giá danh nghĩa nhẹ so với USD, nhưng điều này không phải, không nên được coi là
một yếu tố rủi ro châm ngòi cho sự trả đũa thương mại của Mỹ. Bởi, như người viết
đã lập luận trước đây, cáo buộc thao túng tiền tệ của Mỹ hay của bất cứ nước
nào không được phép dựa trên những hành động chính sách trong nước của nước sở
tại như nới lỏng chính sách tiền tệ (để thúc đẩy xuất khẩu và tăng trưởng kinh
tế), mà chỉ được phép dựa trên những bằng chứng rõ ràng cho thấy nước sở tại
can thiệp trực tiếp vào tỷ giá (mua USD, bán bản tệ).
Cần lưu ý thêm rằng
cho chênh lệch lạm phát giữa Mỹ và Việt Nam vẫn ở mức độ tương đối đáng kể
trong năm nay (và những năm tới) nên tỷ giá thực của VND so với USD đã và sẽ tiếp
tục tăng lên, ảnh hưởng tiêu cực tới tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ của
Việt Nam. Bởi vậy, duy trì sự ổn định tỷ giá danh nghĩa tiền đồng so với USD sẽ
là không đủ để hạn chế sự lên giá thực này của tiền đồng. Thay vào đó, cần phải
để tỷ giá danh nghĩa tiền đồng so với USD yếu đi theo mức độ chênh lệch lạm
phát giữa hai nước, cũng như bản thân mức lạm phát tại Việt Nam so với lạm phát
mục tiêu mà Chính phủ và Quốc hội đề ra.
Việc điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa yếu đi, nếu có, cần được thực hiện chủ yếu thông qua điều chỉnh lãi suất chính sách thay vì can thiệp trực tiếp bằng việc mua USD như trong thời gian qua.
No comments:
Post a Comment