Friday 25 September 2020

Giảm thuế để hỗ trợ doanh nghiệp: Cần nhưng không thể cào bằng (Bài đăng trên TBKTSG, 25/9/2020, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/308565/giam-thue-de-ho-tro-doanh-nghiep-can-nhung-khong-the-cao-bang.html


Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính đã kiến nghị giảm 30% thuế thu nhập cho tất cả các doanh nghiệp năm 2020. Tuy nhiên, kiến nghị này đã đối mặt với nhiều ý kiến trái chiều. Từ một góc độ khác, người viết cũng cho rằng cách thức thực hiện ý kiến này là chưa hợp lý.

Cụ thể, theo Ban IV, kiến nghị giảm thuế xuất phát từ nguyện vọng của các doanh nghiệp sau 3 cuộc khảo sát tình hình doanh nghiệp từ tháng 3 năm nay do ban này thực hiện. Trong các cuộc khảo sát này, nhiều doanh nghiệp đã kiến nghị giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp cho cả năm 2019 và 2020.

Như vậy, kiến nghị của Ban IV thuần túy được dựa trên cơ sở khảo sát, hỏi ý kiến doanh nghiệp. Nhưng, như một lẽ tự nhiên, các doanh nghiệp nếu có được khảo sát thì sẽ thiên về hướng “than nghèo, kể khổ” rồi kiến nghị những điều có lợi cho mình, đặc biệt là trong bối cảnh dịch bệnh như hiện nay.

Do đó, nếu dựa hoàn toàn vào kiến nghị của doanh nghiệp được khảo sát như cách làm hiện tại của Ban IV thì kết quả khảo sát sẽ bị méo mó, thổi phồng hay tô đậm quá mức và các kiến nghị dựa trên kết quả này đương nhiên sẽ không hợp lý, khách quan, phản ánh đúng thực tế, và, do đó, không nên được sử dụng làm căn cứ cho các quyết sách kinh tế tương ứng.

Để công tâm, khách quan và có ý nghĩa hơn, mọi kiến nghị giảm thuế cho doanh nghiệp cần được xây dựng dựa trên những bằng chứng xác đáng, những tính toán tổng thể hơn, có cân nhắc đến nhiều mặt.
Trước hết, Ban IV, hay bất cứ đơn vị nào thực hiện các kiến nghị chính sách liên quan đến cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, cần thu thập những bằng chứng cho thấy “đại bộ phận” (70%, 80%, 90%?) doanh nghiệp đang gặp thua lỗ, không thể hoạt động, đóng cửa, hoặc giải thể v.v... Số doanh nghiệp được điều tra này có thể là một mẫu doanh nghiệp lựa chọn ngẫu nhiên, gồm nhiều ngành, nghề, quy mô và địa phương...

Những bằng chứng về khó khăn của doanh nghiệp có thể là kết quả hoạt động kinh doanh đã kiểm toán hoặc nộp cho cơ quan thuế vụ, cơ quan chức năng trong các quý từ đầu năm nay. Nó cũng có thể đơn giản chỉ là bằng chứng chứng minh là doanh nghiệp đang gặp khó khăn như theo quy định áp dụng khi doanh nghiệp nào đó làm đơn xin hỗ trợ trong các gói hỗ trợ kinh tế lần thứ nhất và thứ hai trong năm nay.

Tiếp đó, Ban IV cần tính toán cụ thể ra được tác động của việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp lên kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong năm nay và năm sau ở từng mức giảm thuế, ví dụ 30%, 50%. Một trong những tác động này có thể là, ví dụ, với mức giảm thuế 30% thì có bao nhiêu phần trăm doanh nghiệp điều tra sẽ không bị đóng cửa, ngừng sản xuất, kinh doanh.

Ngoài ra, cũng cần lưu ý bóc tách hoặc tính đến cả những biện pháp hỗ trợ khác của nhà nước cho các doanh nghiệp như cho vay doanh nghiệp để giữ chân người lao động, cắt giảm các loại thuế, phí và chi phí khác như đã và đang được đề xuất hay thi hành.

Tiếp theo, chỉ có thể dựa trên những bằng chứng điều tra, thu thập khách quan này thì Ban IV mới có thể xây dựng một chính sách giảm thuế phù hợp hơn, cụ thể như cho toàn bộ doanh nghiệp hay chỉ cho một số nhóm đối tượng doanh nghiệp, nếu có cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp thì sẽ cắt giảm bao nhiêu là đủ...

Cần lưu ý rằng không phải tất cả các doanh nghiệp đều gặp khó khăn nên cần phải được cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho tất cả các doanh nghiệp như đang được đề xuất. Thực tế cho thấy có nhiều doanh nghiệp lại thậm chí đang được hưởng lợi từ đại dịch. Do đó, mọi biện pháp hỗ trợ đều phải xuất phát từ nguyên tắc là tránh tình trạng cào bằng, là thiếu sót hiện tại trong kiến nghị của Ban IV.

Sau cùng, kiến nghị mức và quy mô, đối tượng được cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cần phải tính đến khả năng chịu đựng của ngân sách nhà nước, chứ không chỉ đơn giản là dựa trên lập luận như của Ban IV là nếu không giảm thuế thì doanh nghiệp có doanh thu âm và nhà nước cũng không có thuế (nên phải giảm!).

Cũng giống như ở bất cứ nước nào trên thế giới, cứu trợ hay không, cứu trợ như thế nào và bao nhiêu... bao giờ cũng phải được thiết kế và tính toán trên khả năng của ngân sách. Và cũng xin lặp lại rằng doanh nghiệp luôn có xu hướng kêu than; khó khăn thì luôn vượt quá tầm cứu trợ của ngân sách mọi quốc gia. Nên kể cả ở những nước giàu như Mỹ và EU thì hầu như không có gói cứu trợ nào mang tính đại trà như kiểu giảm thuế đại trà cho mọi doanh nghiệp như đang được kiến nghị ở Việt Nam.

Do vậy, với ngân sách hạn hẹp, không kham nổi các gói cứu trợ trên diện rộng như ở Việt Nam thì dù biết là (một số) doanh nghiệp khó khăn nhưng chúng ta thậm chí vẫn phải để cho một số doanh nghiệp bị đào thải.

Xét trên khía cạnh này thì chí ít điều Ban IV cần làm là tính toán được thiệt hại và tác động của việc giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho mọi doanh nghiệp trong năm 2020 lên ngân sách nhà nước. Lưu ý rằng Chính phủ đã ước tính được nếu giảm 30% thuế thu nhập cho các doanh nghiệp có doanh thu năm 2020 dưới 200 tỷ đồng thì ngân sách hụt thu 23.000 tỷ đồng.

Vì vậy, con số hụt thu tương tự cho ngân sách khi phải thực hiện giảm 30% thuế thu nhập cho mọi doanh nghiệp là con số cần phải được tính toán ra để Chính phủ và Quốc hội có cơ sở cân nhắc trước khi thông qua kiến nghị của Ban IV. Lập luận mang tính định tính để biện minh cho kiến nghị của mình như hiện tại của Ban IV là không phù hợp để xây dựng chính sách.

Nếu Ban IV thấy rằng cách làm như trên để ra được một kiến nghị hợp lý là quá khó khăn, vượt tầm của Ban IV thì rõ ràng ban này không phải là nơi thích hợp để xây dựng các kiến nghị chính sách tương tự.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).