Bất chấp đại dịch,
kết quả kinh doanh nửa đầu năm của nhiều ngân hàng thương mại vẫn rất khả quan,
với nhiều ngân hàng thậm chí báo cáo mức tăng trưởng lợi nhuận hai con số. Tuy
vậy, điều này là không đáng ngạc nhiên bởi nó có được là một phần quan trọng nhờ
vào Thông tư 01 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành giữa tháng 2 cho phép
các ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách
hàng chịu ảnh hưởng của dịch.
Do dịch bệnh đã
quay lại hồi tháng 7 và nền kinh tế tiếp tục khó khăn, nợ xấu thực tế được dự
báo sẽ tiếp tục tăng mạnh. Trước tình hình này, Thông tư 01 đang được xem xét sửa
đổi để cho phép cơ cấu lại thời hạn trả
nợ, giữ nguyên nhóm nợ đủ tiêu chuẩn đối với các khoản giải ngân từ ngày
23-1-2020 đến ngày 24-4-2020.
Nếu được thông
qua, thông tư sửa đổi của Thông tư 01 sẽ tiếp tục làm nợ xấu trong toàn hệ thống
ngân hàng đỡ xấu, lợi nhuận ngành ngân hàng tiếp tục đẹp hơn thực tế. Quan trọng
hơn, nhờ giải pháp kỹ thuật này mà ngân hàng vẫn tiếp tục được phép đẩy mạnh cho vay mà không bị trói buộc quá chặt
bởi nợ xấu và những yếu tố liên quan như trích lập dự phòng, tỷ lệ vốn tối thiểu
v.v... vốn đã trở nên xấu đi nhiều nếu nợ xấu không được (gia hạn) cơ cấu. Điều
này được kỳ vọng sẽ giúp phục hồi tăng trưởng kinh tế nói chung và làm lợi cho
ngành ngân hàng nói riêng.
Tuy nhiên, cuộc
vui nào rồi cũng sẽ đến lúc tàn. Thông tư 01 dù có được sửa đổi thêm một hoặc
vài lần nữa thì chắc chắn sẽ phải đến lúc không thể, không còn lý do để sửa đổi
nó, để nó hết hiệu lực. Lúc đó, nợ xấu sẽ buộc phải nổi lên với quy mô vượt xa
so với con số “đẹp” báo cáo trước đó. Các ngân hàng lúc này sẽ đột ngột phải đối
mặt với khối nợ xấu đồ sộ này để rồi rơi vào tình trạng xấu không kém gì khi phải
đương đầu ngay với các khoản nợ xấu tăng đột ngột do hậu quả của đại dịch trước
đó.
Nói cách khác, việc
cho phép che giấu nợ xấu chỉ giúp trì hoãn thời điểm chịu đau đớn, chứ không chữa
được cơn đau chắc chắn sẽ xảy ra. Dẫu cũng có ngân hàng chủ động trích lập dự
phòng, tích cực xử lý nợ xấu ngay cả trong thời gian được phép giấu nợ xấu, nhưng
đây chỉ là thiểu số. Điều này một phần bởi quy mô và tiềm lực xử lý nợ xấu là
khác nhau, chênh lệch đáng kể giữa các ngân hàng và nhóm ngân hàng. Mặt khác, vì
phải (chạy theo) bảo đảm thành tích kinh doanh (chịu ảnh hưởng cửa tính nhiệm kỳ)
nên các ngân hàng theo lẽ thường sẽ có xu hướng giấu nợ nhiều nhất có thể, nhất
là khi được phép, nên dù có chủ động và tích cực đến mấy thì vẫn sẽ có một phần
lớn nợ xấu được giấu đi, cả hợp pháp và bất hợp pháp (bằng các thủ thuật).
Do vậy, nếu cân
nhắc thiệt hơn, câu hỏi đặt ra là có nên tiếp tục sửa đổi Thông tư 01 để cho
phép nợ xấu – vốn chắc chắn sẽ tiếp tục tăng mạnh bởi sự quay lại của dịch – được
che giấu theo kiểu “giấu bụi dưới thảm”?
Nếu ngân hàng tiếp
tục giấu nợ để tăng cường cho vay doanh nghiệp và nền kinh tế thì không thể phủ
định được khả năng doanh nghiệp và nền kinh tế sẽ phục hồi nhanh hơn và nợ xấu
ngân hàng nhờ đó cũng sẽ được xử lý nhanh hơn. Nhưng quá trình theo lý thuyết
này có thể sẽ tốn rất nhiều thời gian.
Công cuộc xử lý nợ
xấu tích tụ từ những năm đầu thập kỷ này đã chật vật diễn ra trong nhiều năm
cho đến khi có các giải pháp xử lý mạnh tay hơn như theo Nghị quyết 42 của Quốc
hội và Đề án 1058 của Chính phủ, chưa kể sự ra đời trước đó của VAMC thì tình
hình mới phần nào được cải thiện nhanh chóng hơn cho đến khi một lần nữa nền
kinh tế lại rơi vào khó khăn do đại dịch năm nay.
Vấn đề là việc thực
hiện Nghị quyết 42 ngay trong thời bình thường đã và đang gặp nhiều trở ngại,
nhất là những vướng mắc pháp lý liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm, bất
chấp nhiều trong số những trở ngại này đã được xác định để có hướng giải quyết.
Trên thực tế, để xử lý được những vướng mắc pháp lý này thì phải sửa đổi đồng bộ
nhiều luật như Luật Nhà ở, Luật Đầu tư, Nghị quyết 42 v.v... Điều chắc chắn là
để cho đến khi không còn vướng mắc nữa thì bản thân những luật sửa đổi này cũng
sẽ phải được sửa đổi thêm một đôi lần nữa như một thực tế thường thấy ở Việt Nam,
tức là sẽ cần thêm không ít năm nữa.
Với thời gian dự
kiến kéo dài để xử lý đống nợ xấu dồn lại sau đại dịch, triển vọng xử lý nợ xấu
sẽ trở nên bất trắc hơn nếu đột nhiên nền kinh tế trong nước và thế giới lại phải
đối mặt với một cuộc khủng hoảng mới, là điều không thể nói trước được, tương tự
như việc đột ngột xảy ra dịch Covid-19 giữa lúc Việt Nam đang quyết tâm đạt mục
tiêu xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém trong giai
đoạn 2016-2020 như đã đề ra. Lúc đó, sẽ lại có trì hoãn, gia hạn, và sửa đổi,
cũng như các biện pháp mua thời gian giống và khác trong quá khứ và hiện tại, để
rồi ngành ngân hàng tiếp tục ngụp lặn trong mớ rối ren không lối thoát.
Trên hết, việc giấu,
làm đẹp nợ xấu cần được đi kèm với những giải pháp không được khuyến khích như
chậm/trì hoãn áp dụng các chuẩn mực mới của quốc tế đã được nhiều nước áp dụng,
ví dụ như tiêu chuẩn kế toán quốc tế IFRS 9 (trong khi Việt Nam vẫn áp dụng chuẩn
kế toán VAS của riêng mình). Việc chậm chễ này sẽ để lại những hậu quả tương tự
như việc chậm chễ áp dụng các chuẩn mực an toàn của Basel II và cao hơn.
Vì vậy, với triển
vọng bất trắc trong xử lý nợ xấu khi được che giấu như trên, cần xem lại chủ
trương sửa đổi, gia hạn Thông tư 01 hay những giải pháp tương tự trong tương
lai mỗi khi nền kinh tế đối mặt với một cú số nào đó. Sự (bắt buộc phải) thẳng
thắn đối mặt với nợ xấu ngay khi chúng phát sinh sẽ không chỉ tăng thêm tính
minh bạch, lành mạnh của hệ thống mà còn giúp cho các ngân hàng có thêm động lực
để xử lý nợ xấu sớm trong khả năng có thể.
Quá trình xử lý sớm
và triệt để nợ xấu tất nhiên sẽ gây ra những hậu quả lập tức cho doanh nghiệp,
ngân hàng và cả nền kinh tế. Nhưng điều này cũng là điều không thể tránh khỏi bởi
hậu quả này không xảy ra sớm thì cũng xảy ra muộn mà hầu như không có phép màu
nào giúp chúng ta tránh được.
Và trên hết, không nên đánh đổi sự lành mạnh, an toàn của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế trong dài hạn lấy một vài điểm phần trăm tăng trưởng trong ngắn hạn.
No comments:
Post a Comment