Saturday, 31 October 2020

Một mũi tên không thể bắn hai con chim (Bài đăng trên TBKTSG, 31/10/2020, tiêu đề do báo đặt lại)

 https://www.thesaigontimes.vn/309966/mot-mui-ten-khong-the-ban-hai-con-chim.html

Mới đây, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) đã cho biết về kế hoạch chuyển đổi mô hình hoạt động từ Tổng công ty sang Quỹ đầu tư Chính phủ. Theo đó, trong dự thảo Chiến lược phát triển SCCI giai đoạn 2020-2030 và tầm nhìn đến 2035, trong giai đoạn 2020-2025, SCCI sẽ dần chuyển hướng từ hoạt động tiếp nhận, quản trị doanh nghiệp và bán vốn sang tập trung đầu tư vào ngành, lĩnh vực mang lại hiệu quả và ngành, lĩnh vực Nhà nước cần tiếp tục nắm giữ chi phối để thực hiện vai trò then chốt của doanh nghiệp nhà nước (DNNN).

Từ sau 2025, SCCI sẽ chuyển trọng tâm từ quản trị doanh nghiệp sang đầu tư, kinh doanh vốn một cách tích cực và chủ động, thực hiện đầy đủ và rõ nét hơn vai trò là nhà đầu tư của Chính phủ. Mục tiêu là tìm kiếm cơ hội đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mang lại hiệu quả kinh tế hoặc Nhà nước cần tiếp tục nắm giữ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp (1).

Về mô hình hoạt động, SCCI cho rằng hình thức công ty đầu tư (giống Temasek của Singapore) là phù hợp hơn (với SCCI), so với mô hình công ty quản lý quỹ.

Vẫn lấn cấn về sứ mệnh, nhiệm vụ

Theo nội dung nêu trên, trong cả hai giai đoạn, 2020-2025 và sau 2025, SCCI vẫn được/bị ôm nhiệm vụ đầu tư vào ngành, lĩnh vực mà “Nhà nước cần tiếp tục nắm giữ” (để “thực hiện vai trò then chốt của DNNN” như trong giai đoạn 2020-2025, hoặc để “nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp” như trong giai đoạn từ sau 2025).

Như đã được chỉ ra nhiều lần, hầu như bất cứ DNNN nào nếu cứ phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ là kính doanh theo đuổi lợi nhuận thương mại và nhiệm vụ chính trị của nhà nước, do nhà nước giao thì không thể nào có kết quả tốt cho cả hai nhiệm vụ này. Nếu vì mục đích tối đa hóa lợi nhuận thì DNNN sẽ phải xem nhẹ nhiệm vụ chính trị như đầu tư vào những ngành, lĩnh vực mà các doanh nghiệp tư nhân khác không muốn làm (vì không có lợi nhuận), và ngược lại.

Kể cả đầu tư vào trong những lĩnh vực mà nhà nước cho rằng doanh nghiệp tư nhân không thể làm được (vì khó) thì mục tiêu lợi nhuận cũng sẽ phải xếp lại sau, bởi không có những sản phẩm và dịch vụ tương tự do doanh nghiệp tư nhân tạo ra để so sánh. Tiện đây xin nói thêm, bản thân cái suy nghĩ rằng doanh nghiệp tư nhân không thể làm được, mà chỉ có DNNN mới có thể làm, cũng chỉ là một sự quy chụp dễ dãi, bởi ngay ở Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân đã cung cấp được nhiều sản phẩm và dịch vụ mà đối với DNNN thì... vẫn mãi là thách thức! Trên thế giới, ngay cả những lĩnh vực khó như công nghiệp vũ trụ, đôi khi các Chính phủ phương Tây vẫn cứ phải dựa vào doanh nghiệp tư nhân.

Nói như vậy để thấy rằng nếu SCCI tiếp tục theo đuổi con đường vừa đầu tư (để tối đa hóa lợi nhuận), vừa giúp củng cố, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại DNNN thì kết cục nhìn thấy trước là không khả quan/khả thi.

Nếu lập luận rằng SCCI đầu tư vào DNNN nhưng đồng thời SCCI sẽ giúp DNNN nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì sẽ đạt được cả hai mục đích là lợi nhuận và chính trị thì vẫn là bao biện. Trước hết, do DNNN, như đã nói, phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ xung đột về lợi ích với nhau nên DNNN nhìn chung là nơi đầu tư không mang lại hiệu quả (lợi nhuận) cao so với đầu tư vào các doanh nghiệp tư nhân khác, trừ khi DNNN đó được độc quyền – là thứ mà càng ngày càng khó tồn tại, hoặc DNNN đó đã không làm tốt “nhiệm vụ chính trị”. Nên SCCI đầu tư vào dù là DNNN “tốt” chăng nữa cũng sẽ khó có thể tối đa hóa lợi nhuận từ đồng vốn nhà nước mà nó quản lý.

Quan trọng không kém, SCCI không thể, không bao giờ là nhà quản trị chuyên nghiệp, có đủ điều kiện để xoay chuyển tình hình tại từng và tất cả DNNN ở nhiều ngành/lĩnh vực mà nó đang và sẽ đầu tư vào. Những gì mà SCCI đã làm được trên phương diện này trong thực tế là minh chứng rõ nét nhất.

Ngay đến “công ty mẹ” của SCCI là Ủy ban Quản lý vốn nhà nước (Ủy ban) với đầy quyền năng mà cũng đã và đang bế tắc ở, trong việc vực dậy nhiều DNNN. Và cũng cần nói thêm là Ủy ban cũng có chức năng, nhiệm vụ “hao hao” SCCI trước và sau chuyển đổi (lưu ý là cả Ủy ban lẫn SCCI đều được đề xuất xây dựng/thực hiện dựa trên mô hình Temasek), nên có lẽ Ủy ban mới là tổ chức cần (và đủ tầm để) chuyển đổi mô hình hoạt động. Do vậy, việc chuyển đổi mô hình hoạt động của SCCI chỉ làm rối thêm tình hình, mà trước mắt là sẽ phải sửa đổi mô hình hoạt động của Ủy ban – vốn đã rất rắc rối và nhiều tồn tại, chỉ để cho phù hợp với mô hình mới của công ty con SCCI.

Vẫn hiểu sai về mô hình Temasek

Có một điều lạ là rất nhiều chuyên gia, học giả và quan chức hay trích dẫn mô hình Temasek để làm cơ sở đề xuất hay biện minh cho SCCI, và cao hơn là Ủy ban nhưng bản chất của Temasek là gì thì xem ra lại không rõ hoặc hiểu không đúng.

Temasek Holdings là cỗ máy đầu tư cho Chính phủ Singapore, với Chính phủ là cổ đông chi phối (nhưng không phải là cổ đông duy nhất như với SCCI hiện tại và sau này). Nó còn có chức năng như một công ty mẹ của nhiều công ty có ít nhất 20% cổ phần nắm giữ bởi Chính phủ.

Thuộc tính sở hữu nhà nước của Temasek được thể hiện dưới ba khía cạnh: (1) Tổng thống phê chuẩn bổ nhiệm các vị trí chủ chốt như thành viên Hội đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc; (2) ngân quỹ cho hoạt động và các giao dịch không được lấy từ nguồn dự trữ có từ trước khi thành lập Chính phủ nhiệm kỳ hiện tại, trừ trường hợp được Tổng thống phê duyệt; và (3) các công ty và tổ chức Chính phủ phải thực thi các chuẩn mực quản trị tài chính để bảo đảm sự quản trị đúng đắn và quản lý hữu hiệu danh mục tài sản.

Tuy nhiên, Temasek về bản chất vẫn là một công ty đầu tư tư nhân trách nhiệm hữu hạn, xét về cơ cấu chủ sở hữu và mục đích kinh tế kể từ khi thành lập vào năm 1974. Hội đồng quản trị và Ban giám đốc Temasek gồm nhiều thành viên độc lập, không mang quốc tịch Singapore, nhiều người trong số đó vốn là những nhà quản lý cấp cao của nhiều công ty lớn. Họ có toàn quyền và chịu trách nhiệm hoàn toàn trong quyết định đầu tư và kinh doanh để đảm bảo việc quản lý vốn nhà nước tại các công ty thuần túy dựa trên góc độ thương mại, chỉ theo đuổi lợi nhuận và tạo giá trị gia tăng tối đa cho các cổ đông, trong đó có Chính phủ, mà không kiêm nhiệm các “nhiệm vụ chính trị” nào khác như kiểu của SCCI hay Ủy ban hiện tại và trong tương lai.

Yêu cầu Temasek phải thực thi các chuẩn mực quản trị tài chính để bảo đảm sự quản trị đúng đắn và quản lý hữu hiệu danh mục tài sản cũng có nghĩa là sẽ không có chỗ cho các hoạt động “nhập nhèm” giữa theo đuổi lợi nhuận và mục tiêu chính trị.


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).