Thursday 8 October 2020

Nên 'biện hộ' thế nào về chuyện tiền đồng bị định giá thấp? (Bài đăng trên TBKTSG, 8/10/2020)

 https://www.thesaigontimes.vn/309109/nen-bien-ho-the-nao-ve-chuyen-tien-dong-bi-dinh-gia-thap.html

Mới đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tuyên bố tái khẳng định rằng chưa và sẽ không bao giờ sử dụng công cụ chính sách tiền tệ như tỷ giá để tạo lợi thế cạnh tranh không công bằng trong giao dịch thương mại và quốc tế. Lời tái khẳng định này có lẽ được đưa ra trong bối cảnh Mỹ gần đây đã xác quyết rằng VND đã bị định giá thấp hơn giá trị thật khoảng 4,7% trong năm 2019.

Theo cáo buộc của Mỹ, việc định giá thấp này là kết quả của “hành động của Chính phủ Việt Nam lên tỷ giá” bằng việc đã mua 22 tỷ USD gồm cả phần mua bởi NHNN. Phía Mỹ tính toán rằng hành động này của Việt Nam đã làm cho tỷ giá VND, ở mức danh nghĩa là 23.224 đồng/USD năm 2019, thấp hơn khoảng 1.090 đồng so với tỷ giá hối đoái thực cân bằng.

Tuyên bố trên của NHNN là một hành động cần thiết để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trước lời cáo buộc của Mỹ (và của những đối tác khác, nếu có “hùa” theo). Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở sự khẳng định này, dù là tái khẳng định, dù có cương quyết, mạnh mẽ đến đâu mà không đưa ra những bằng chứng và thực tế khách quan thì hiệu quả của tuyên bố này có lẽ sẽ không có nhiều.

Để biện hộ có hiệu quả thì, trong khi phải thừa nhận việc mua vào 22 tỷ USD năm 2019 theo cáo buộc của Mỹ là một thực tế mà không thể, không nên phủ nhận, NHNN có thể làm nhẹ thực tế này bằng cách gắn kết nó với những nhu cầu, quyền lợi chính đáng của quốc gia.

Trước hết, nếu có thể được thì cần đưa ra những số liệu thống kê để chứng minh về sự tăng mạnh nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt là vốn ngắn hạn (không phải là FDI), mang tính đầu cơ mà còn thường được biết đến dưới tên gọi “hot money” chảy vào nền kinh tế Việt Nam trong năm 2019, vốn có thể là kết quả trực tiếp và gián tiếp của thương chiến Mỹ-Trung.

Khi luồng tiền nóng dồn dập đổ vào một nền kinh tế thì hậu quả tất yếu thường là sự lên giá mạnh của bản tệ mà nếu không kịp thời được can thiệp và kiểm soát thì sẽ tạo ra những tác động tiêu cực tới nền kinh tế bản địa như sự lên giá mạnh của bản tệ làm suy giảm trầm trọng tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trong nước, đi kèm với sự căng phồng các bong bóng tài sản như chứng khoán và bất động sản mà sớm muộn cũng sẽ nổ vỡ.

Trước hậu quả nhãn tiền trên, phản ứng chính sách chính đáng, tiêu chuẩn sẽ là can thiệp và kiểm soát lưu chuyển vốn, không để cả tỷ giá thực lẫn tỷ giá danh nghĩa tăng quá mức có thể chấp nhận. Trên khía cạnh này, việc NHNN mua vào USD cần được chỉ ra rằng đây là một hành động tự vệ cần thiết. Hơn nữa, việc mua vào USD này của NHNN thực ra vẫn có thể biện luận là đã “rất thận trọng”, rất chừng mực, khi nó không làm tỷ giá VND/USD suy yếu đáng kể, mà hầu như là ổn định/đứng yên (thực tế, vào cuối năm 2019 tỷ giá danh nghĩa mới chỉ giảm có 0,11% so với đầu năm 2019).

Song song đó, Việt Nam cũng có thể biện hộ thêm rằng với lịch sử nhiều năm phải trải qua những thăng trầm lớn về bất ổn vĩ mô gắn với sự mất giá của VND (so với USD) nên ưu tiên chính sách hàng đầu – rất chính đáng và có ý nghĩa ở/của Việt Nam – là ổn định tỷ giá (danh nghĩa). Hướng đến mục tiêu này, năm 2019 là một năm có thể được coi là thành công khi tỷ giá danh nghĩa hầu như không biến động/suy giảm, nhờ đó lạm phát của Việt Nam trong năm 2019 cũng được kiềm chế ở mức 2,8%.

Mục đích chính đáng bổ sung dự trữ ngoại hối vốn vẫn ở mức dưới chuẩn trước đó cũng là một yếu tố mà Việt Nam có thể sử dụng để bảo vệ mình trước cáo buộc của Mỹ. Trên thực tế, dù Chính phủ Việt Nam có mua vào 22 tỷ USD nhưng phần lớn lượng USD mua vào này chảy vào quỹ dự trữ ngoại hối của NHNN. Theo NHNN công bố, dự trữ ngoại hối đã tăng thêm 20 tỷ USD trong năm 2019, đạt 79 tỷ USD. Như vậy, nếu không mua bổ sung USD trong năm 2019 thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tụt thấp hơn mức tối thiểu cần có cho dự trữ ngoại hối quốc gia theo khuyến cáo là 3 tháng nhập khẩu (tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam năm 2019 theo công bố là 253,5 tỷ USD). Và tuy có mua vào thêm 20 tỷ USD thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong năm 2019 cũng mới chỉ tương đương 3,7 tháng nhập khẩu. Đây không phải là một con số quá lớn đến mức bất thường, không thể chấp nhận được.

Nhưng bên cạnh vấn đề tỷ giá, có lẽ điều mà Mỹ cũng rất xem trọng trong cáo buộc của họ là con số thâm hụt thương mại lớn (và tăng lên) của Mỹ với Việt Nam. Điều này tất yếu có một phần nguyên nhân không nhỏ là do nhiều doanh nghiệp nước ngoài gian lận xuất xứ hàng hóa của Việt Nam, nhưng suy cho cùng cũng bắt nguồn từ thương chiến Mỹ-Trung và các bất đồng thương mại giữa Mỹ với các đối tác khác. Điều này tất nhiên là chẳng mấy có lợi gì cho Việt Nam, kể cả không xét đến cáo buộc của Mỹ. Vì vậy, cần nhìn nhận thẳng thắn vấn đề này với Mỹ và thể hiện những hành động cho thấy chúng ta đang và sẽ quyết liệt xử lý, ngăn ngừa, đồng thời qua đó chứng tỏ cho phía Mỹ thấy tỷ giá VND không phải nguồn cơn chính của tình trạng nhập siêu lớn của Mỹ với Việt Nam.

Sau cùng, việc Mỹ tính toán tỷ giá VND/USD lẽ ra phải yếu đi thêm 1.090 đồng/USD có một phần là do chênh lệch lạm phát giữa Mỹ và Việt Nam làm cho VND lên giá thực so với USD. Tuy nhiên, với mức chênh lệch lạm phát tương đối nhỏ giữa Việt Nam và Mỹ, tương ứng là 2,8% và 2,3% năm 2019, trong khi tỷ giá danh nghĩa hầu như không thay đổi, thì tính toán của Mỹ rằng rằng VND đã bị định giá thấp hơn giá trị thật khoảng 4,7% trong năm 2019 là một điều khá bất ngờ và khó hiểu. Việt Nam cần yêu cầu phía Mỹ giải thích cụ thể tính toán của họ để có cơ sở phản biện một cách hữu hiệu, chuẩn xác hơn.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).