https://www.thesaigontimes.vn/309394/mua-lai-co-ky-han-trai-phieu-chinh-phu-thi-sao.html
Bộ Tài chính đang
lấy ý kiến dự thảo Thông tư hướng dẫn giao dịch mua lại có kỳ hạn trái phiếu
Chính phủ (TPCP) của Kho bạc Nhà nước (KBNN) từ nguồn ngân quỹ nhà nước tạm thời
nhàn rỗi. Theo đó, KBNN sử dụng ngân quỹ nhà nước tạm thời nhàn rỗi để mua TPCP
và nhận quyền sở hữu TPCP từ bên bán – là các ngân hàng thương mại (NHTM) đáp ứng
được các điều kiện như quy định trong dự thảo thông tư, đồng thời cam kết sẽ
bán lại và chuyển quyền sở hữu khối lượng TPCP đó cho bên bán (NHTM) sau một thời
gian xác định với một mức giá xác định.
Về sự cần thiết
ban hành thông tư này, Bộ Tài chính chỉ giải thích rất ngắn gọn là để có cơ sở
thực hiện nghiệp vụ mua lại có kỳ hạn TPCP chưa được triển khai. Trong khi đó, những
nghiệp vụ sử dụng ngân quỹ Nhà nước tạm thời nhàn rỗi khác được quy định trong
Nghị định số 24/2016/NĐ-CP đã được triển khai từ năm 2017. Lý do chậm triển
khai này, cũng theo Bộ Tài chính, là do đây là nghiệp vụ mới, khá phức tạp.
Do nghiệp vụ mua
lại có kỳ hạn TPCP có ý nghĩa thiết thực, như nói thêm ở dưới đây, việc Bộ Tài
chính mất đến 4 năm mới đưa ra được bản dự thảo thông tư là khó hiểu, khó chấp nhận.
Lưu ý thêm là từ dự thảo đến thông tư thật còn cần thêm một khoảng thời gian
đáng kể nữa.
Viện lý do nghiệp
vụ này là “mới, khá phức tạp” nên chậm triển khai cũng là khó chấp nhận bởi
cũng chính Bộ Tài chính là nơi xây dựng và đệ trình Chính phủ ban hành Nghị định
24/2016 quy định về các nghiệp vụ sử dụng ngân quỹ Nhà nước tạm thời nhàn rỗi.
Nên có “mới, khá phức tạp” thì là với ai đó, có lẽ là người dân thường, chứ
không phải là Bộ Tài chính.
Về mục đích và ý
nghĩa của việc mua lại có kỳ hạn TPCP, Bộ Tài chính chỉ đề cập một cách gián tiếp
thông qua giải thích vắn tắt về sự cần thiết của Thông tư trên, gồm “giúp quản
lý ngân quỹ Nhà nước an toàn, hiệu quả và hỗ trợ phát triển thị trường trái phiếu
Chính phủ”.
Như vậy, có thể
hiểu nghiệp vụ mua lại có kỳ hạn TPCP chủ yếu là để phục vụ, đáp ứng nhu cầu của
(ngân quỹ) Nhà nước. Điều này là trái ngược với luồng ý kiến hiện nay cho rằng
nghiệp vụ này là một kênh bơm vốn từ ngân quỹ Nhà nước cho các NHTM, ngoài nghiệp
vụ bơm vốn trên thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Xem xét kỹ hơn về
bản chất của nghiệp vụ mua lại này thì cũng sẽ thấy nó phục vụ chủ yếu cho nhu
cầu của Nhà nước (Bộ Tài chính, KBNN).
Thứ nhất, KBNN có
mua lại TPCP hay không, nói cách khác, có bơm vốn cho NHTM hay không thì hoàn
toàn phụ thuộc vào việc ngân quỹ Nhà nước có tạm thời nhàn rỗi hay không, có
còn hạn mức để mua lại TPCP hay không. Điều này không phụ thuộc vào ý chí và
nhu cầu của NHTM. Nói cách khác, NHTM có bí, khát thanh khoản đến đâu thì cũng
không thể trông chờ, hy vọng vào Bộ Tài chính (KBNN) để bơm vốn như cách mà
NHTM trông chờ vào NHNN như người cho vay cuối cùng (và thường thì sẽ cho vay).
Thứ hai, KBNN có
mua lại TPCP thì cũng không có nghĩa là NHTM có nhu cầu về thanh khoản là sẽ tiếp
cận được với nguồn vốn mà KBNN tung ra thị trường này. Bởi NHTM còn phải đấu thầu
với nhau để được KBNN lựa chọn. Điều này cũng khác với việc NHTM khi có nhu cầu
thanh khoản chỉ cần cầm cố TPCP là hầu như sẽ vay được tiền từ NHNN với lãi suất
quy định trước, hoặc vay trên thị trường.
Thứ ba, KBNN có
tung ra một lượng tiền từ ngân quỹ Nhà nước để mua lại (có kỳ hạn) TPCP thì điều
này không có nghĩa là thị trường/hệ thống ngân hàng được bơm thêm một lượng tiền
tương ứng như cách mà NHNN bơm thêm tiền cho hệ thống thông qua các nghiệp vụ của
nó. Thực chất thì KBNN chỉ tạm thời bơm trả lại cho thị trường/hệ thống ngân
hàng một lượng tiền mà trước đó họ đã gom về cho ngân quỹ Nhà nước thông qua việc
phát hành TPCP để NHTM mua vào và nắm giữ. Ngay cả lượng tiền mà KBNN gom về
ngân quỹ Nhà nước từ phát hành TPCP cũng không nằm im đó mà sẽ được Nhà nước trả
lại cho thị trường thông qua các hoạt động chi tiêu, đầu tư và gửi vào hệ thống
ngân hàng. Nói cách khác, thanh khoản trên thị trường, trong hệ thống sẽ không
thay đổi nếu KBNN phát hành hay mua lại (có kỳ hạn) TPCP. Người quyết định
thanh khoản trên thị trường, trong hệ thống ngân hàng luôn và duy nhất chỉ là
NHNN chứ không phải là ai khác, kể cả Bộ Tài chính (KBNN).
Thứ tư, và quan
trọng nhất, nghiệp vụ mua lại (có kỳ hạn) TPCP từ nguồn ngân quỹ Nhà nước tạm
thời nhàn rỗi, như tên gọi của nó, cũng như trong giải thích của Bộ Tài chính
đính kèm dự thảo, là để phục vụ lợi ích của chính (ngân quỹ) Nhà nước. Cụ thể,
sử dụng nguồn tiền được xác định là tạm thời nhàn rỗi mà nếu để không thì không
sinh ra đồng lời lãi nào, KBNN mua lại TPCP từ NHTM. Việc mua này về bản chất
cũng tương tự như cho NHTM vay, với TPCP mà NHTM đang nắm giữ là tài sản thế chấp.
Nó trên hết sẽ giúp cho ngân sách Nhà nước không phải trả lãi (định kỳ) cho TPCP
mà NHTM đang nắm giữ (nay tạm thời chuyển giao quyền sở hữu cho KBNN), hoặc trả
lãi ít hơn cho cùng TPCP đó về tổng thể. Nói cách khác, nhờ sử dụng/đầu tư nguồn
ngân quỹ Nhà nước tạm thời nhàn rỗi không sinh lãi, nghiệp vụ mua lại (có kỳ hạn)
TPCP sẽ tiết kiệm chi cho ngân sách ở mức độ tương ứng với quy mô mua lại của
KBNN.
Thứ năm, qua việc
bán có kỳ hạn TPCP cho KBNN, các NHTM cũng được hưởng lợi nhờ chủ động tính
toán, quản lý, kiểm soát được tình trạng thanh khoản và khả năng gia tăng lợi
nhuận từ tài sản nắm giữ (là TPCP) của mình. Ví dụ, nếu thấy thanh khoản sẽ thiếu
hụt trong kỳ tới trong khi đang nắm giữ TPCP thì NHTM thay vì đem cầm cố để vay
trên thị trường hay tại NHNN, có thể cầm cố/bán có kỳ hạn số TPCP này cho KBNN,
với chi phí/lãi suất có thể thấp hơn trên thị trường hoặc thấp hơn lãi suất cho
vay tái chiết khấu ấn định trước và áp dụng đại trà của NHNN. Như vậy, ở đây có
thể nói việc mua lại này của KBNN mang lại lợi ích song phương, nếu được tiến
hành thành công.
Tất nhiên, xin nhắc
lại là việc vay cầm cố này của NHTM có thành công hay không còn phụ thuộc vào
nhu cầu (cho vay) của KBNN từng thời kỳ, cũng như tình hình lãi suất thị trường
hiện tại dự đoán cho đầu và cuối kỳ tới được xác định thông qua đấu thầu giữa
các NHTM.
Thứ sáu, cũng đúng như Bộ Tài chính giải thích, việc mua lại có kỳ hạn này hỗ trợ phát triển thị trường TPCP. Bởi nó là một kênh bổ sung cho việc sử dụng TPCP, làm cho TPCP trở nên hữu dụng hơn và, do đó, hấp dẫn hơn cho việc nắm giữ, trao đổi, kinh doanh bởi các NHTM và tổ chức tài chính. Rốt cuộc, ngân sách Nhà nước sẽ được hưởng lợi khi thị trường tích cực đón nhận hơn các đợt phát hành TPCP mới, với chi phí phát hành cạnh tranh hơn (giảm đi).
No comments:
Post a Comment