Monday, 4 January 2021

Ngân hàng Nhà nước kinh doanh ngoại tệ trong nước – tại sao không? (Bài đăng CafeF, 4/1/2021)

https://cafef.vn/ngan-hang-nha-nuoc-kinh-doanh-ngoai-te-trong-nuoc-tai-sao-khong-20210104104639282.chn

Như đã được đề cập, gần đây Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ngừng công bố tỷ giá mua USD giao ngay, chỉ tiếp tục công bố tỷ giá bán USD giao ngay, hiện ở mức 23.775 VND/USD. Trước đó, tỷ giá mua USD giao ngay hồi tháng 11/2020 là 23.125 VND/USD.

Với tỷ giá giao ngay 2 chiều mua bán nói trên, có lẽ chỉ đến thời gian gần đây chúng mới được NHNN áp dụng, chủ yếu là chiều mua vào (tức ngân hàng thương mại bán USD cho NHNN) khi mà nguồn cung USD trên thị trường dồi dào làm cho tỷ giá liên/trong ngân hàng và thị trường tự do sụt giảm (VND mạnh lên). Còn với tỷ giá bán ra đến 23.775 VND/USD, xem ra nó tiếp tục sẽ không có cơ hội được sử dụng trong giai đoạn tới, đơn giản bởi nó sẽ là quá cao so với mức mà ngân hàng thương mại và thị trường có thể chấp nhận để mua vào, đặc biệt trong xu hướng tiếp tục suy yếu của USD trên thị trường thế giới như hiện nay.

Trong bài trước, chúng ta đã phân tích ẩn ý đằng sau động thái ngừng công bố tỷ giá mua USD giao ngay. Một trong những hàm ý có thể rút ra là NHNN vẫn có thể tiếp tục mua USD giao ngay với tỷ giá thỏa thuận không công bố. Điều đáng nói ở đây là tỷ giá mua giao ngay thỏa thuận này, cũng như tỷ giá bán giao ngay, cần phải/sẽ được xác định trên cơ sở nào.

Nếu như trước đây thì tỷ giá mua hay bán của NHNN phần lớn là nhằm đến mục tiêu can thiệp, ổn định thị trường ngoại tệ – một trong những chức năng chính của ngân hàng trung ương. Do đã từng trải qua một quá khứ dài với tình trạng khan hiếm kinh niên cung USD trong nước cộng với dự trữ ngoại hối mỏng, buộc NHNN phải ưu tiên bảo vệ, tăng cường dự trữ ngoại hối, nên có thể nói không quá rằng tỷ giá bán USD giao ngay của NHNN công bố đa phần chỉ để cho có, bởi nó quá đắt để ngân hàng thương mại có thể mua vào thay vì mua trên thị trường.

Về tỷ giá mua giao ngay của NHNN, nó có phần “dễ thở” hơn đối với ngân hàng thương mại ở cái nghĩa là nó sát với tỷ giá trên thị trường hơn, nhất là khi nguồn cung USD dồi dào, NHNN “tranh thủ” mua vào bổ sung dự trữ ngoại hối. Dẫu vậy, do đầu ra gần như bị bịt bởi tỷ giá bán giao ngay quá cao so với thị trường nên tỷ giá mua giao ngay của NHNN đến một lúc nào đó sẽ phải trở nên phi thị trường như với tỷ giá bán giao ngay (tức sẽ thấp hơn tỷ giá mua trên thị trường), để hạn chế việc mua vào của NHNN bởi những lý do như bị cáo buộc thao túng tiền tệ (gồm chỉ mua mà không bán USD) bởi các đối tác thương mại của Việt Nam như đang chứng kiến hiện nay.

Nói cách khác, cơ sở xác định tỷ giá mua, bán USD giao ngay của NHNN cho đến gần đây chủ yếu là những cân nhắc vĩ mô, về chính sách, chứ không có tính thương mại, không vì mục đích kinh doanh (kinh doanh ngoại tệ).

Sẽ có người lập luận rằng chức năng của NHNN – một ngân hàng trung ương đương nhiên không phải là kinh doanh, dù là kinh doanh ngoại tệ. Điều này có thể đúng... một phần! Cần nhớ rằng NHNN, cũng như các ngân hàng trung ương khác, đã, đang và sẽ tiếp tục “quản lý” quỹ dự trữ ngoại hối của mình để tối ưu/tối đa hóa tính thanh khoản cũng như giá trị của nó. Việc này cần thiết phải thiết lập và cho hoạt động bộ phận kinh doanh ngoại hối cũng như quản lý tài sản với các đối tác nước ngoài, là cái cũng đang tồn tại ở NHNN. Đã có bộ phận chức năng như vậy kinh doanh với đối tác nước ngoài thì cũng chẳng có gì ngăn cản việc mở rộng kinh doanh này ra với các đối tác trong nước, tức các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trong nước.

Cũng có thể còn ai đó vẫn “lăn tăn” đôi chút với chuyện lồng ghép chức năng quản lý vĩ mô và chức năng kinh doanh của NHNN trong chuyện này. Thực ra, nếu đã kinh doanh với các đối tác nước ngoài dựa trên các nội quy và nguyên tắc đặt ra để đáp ứng được các yêu cầu an toàn và bảo tồn, phát triển quỹ dự trữ ngoại hối thì cũng hoàn toàn có thể áp dụng các nội quy và nguyên tắc này cho các giao dịch với các đối tác trong nước mà không phải e ngại ảnh hưởng đến chức năng quản lý vĩ mô của NHNN.

Nếu đã đồng ý về chuyện NHNN kinh doanh ngoại tệ với các đối tác trong nước rồi thì việc cần làm tiếp theo là NHNN cần ngừng công bố cả tỷ giá bán USD giao ngay. Tỷ giá mua, bán giao ngay của NHNN lúc này sẽ linh hoạt, trên cơ sở thỏa thuận song phương với từng ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng, nhưng phải khai thác được lợi thế (và cũng là trách nhiệm) của NHNN là người mua, bán cuối cùng trên thị trường mà theo đó thì chiều mua có thể rẻ hơn và chiều bán thì có thể đắt hơn thị trường ở một biên độ nào đó có thể chấp nhận được. Một khi đã đạt đến các ngưỡng an toàn và các cân nhắc vĩ mô tổng thể thì việc mua hay bán cần thiết phải dừng lại hoặc đảo chiều một cách cũng linh hoạt, thông qua điều chỉnh tỷ giá mua, bán tương ứng.

Với cung cách “kinh doanh” như vậy, rõ ràng NHNN vừa đảm bảo được chức năng quản lý vĩ mô thị trường ngoại tệ trong nước của mình, đồng thời vẫn đảm bảo xây dựng và củng cố dự trữ ngoại hối quốc gia một cách hiệu quả và an toàn.


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).