Saturday, 16 January 2021

Để không ngừng đổi mới sáng tạo (Bài đăng trên TBKTSG, 15/1/2021)

 https://www.thesaigontimes.vn/312617/de-khong-ngung-doi-moi-sang-tao.html

Nhận thức về vai trò của đổi mới sáng tạo trong chiến lược phát triển ở Việt Nam đã được thể hiện thành hành động như khởi công Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) và khai trương Triển lãm quốc tế đổi mới sáng tạo Việt Nam 2021 gần đây. Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu các kinh nghiệm và xu hướng mới trên thế giới để tìm lời giải tối ưu cho bài toán làm thế nào để đổi mới sáng tạo không ngừng một cách hiệu quả.

Ai trả tiền?

Trên tất cả mọi thứ, đổi mới sáng tạo đương nhiên cần tiền, thậm chí rất nhiều tiền, để chi cho các hoạt động từ việc lên ý tưởng đến thương mại hóa, mở rộng và cuối cùng là duy trì doanh nghiệp/startup một cách bền vững trong dài hạn. Vậy những doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân liên quan tham gia đổi mới sáng tạo tìm nguồn tài trợ từ đâu?

Thông thường, ngoài nguồn từ doanh nghiệp, nguồn tài trợ sẽ đến từ chính phủ, các quỹ đầu tư quốc gia, các tổ chức phi lợi nhuận, các quỹ đầu tư mạo hiểm, thị trường mua bán sở hữu trí tuệ, gọi vốn cộng đồng... Tuy nhiên, trong những giai đoạn biến động, bất an lớn như trong thời đại dịch, vai trò hỗ trợ tài chính, bà đỡ cho đổi mới sáng tạo của chính phủ càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong bối cảnh có các đợt phong tỏa (tiềm năng), các nguồn tài chính cạn kiệt, tâm lý sợ rủi ro dâng cao.


Theo hướng này, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của Singapore khi nước này vào năm 2018 đã tạo lập ít nhất bảy loại quỹ hoặc chương trình ưu đãi, hỗ trợ tài chính dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các startup của người Singapore và, trong một số trường hợp, cho người nước ngoài. Những giải pháp tài chính này đã góp phần đưa Singapore trở thành một trong những nơi khởi nghiệp công nghệ hàng đầu trên thế giới.

Tuy đa dạng về hình thức và nội dung hỗ trợ như vậy, nhưng nhìn chung các hỗ trợ này được thiết kế và hoạt động có trọng tâm rõ ràng, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực công nghệ, mang tính sáng tạo, thúc đẩy cải thiện năng suất nhưng đồng thời luôn đảm bảo nguyên tắc hỗ trợ phải được gắn với kết quả cụ thể mang lại và có tính duy trì trong tương lai(1).

Trong lĩnh vực nào?

Các lĩnh vực đổi mới sáng tạo ở Việt Nam xem ra vẫn còn được xác định một cách chung chung, quá rộng và trừu tượng, gồm lĩnh vực mà Việt Nam tự cho mình là có thế mạnh như nông nghiệp, công nghiệp chế biến chế tạo và công nghệ thông tin(2), trong khi lại bỏ qua những lĩnh vực thiết yếu, nhất là có xu hướng mới. Ví dụ, đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu và phát triển ở các lĩnh vực liên quan đến y tế.

Hệ thống y tế dường như chưa được quan tâm và đề cập đến một cách đáng kể. Khi đại dịch nổ ra, chúng ta mới nhận ra rằng đổi mới sáng tạo trong những lĩnh vực này không phải là xa xỉ mà là thiết yếu. Giá như chúng ta đầu tư thích đáng vào lĩnh vực này, đã nhanh chóng điều chế, hoàn tất thử nghiệm và sản xuất đại trà vaccin như một số nước khác thì rất có thể đã gặt hái được nhiều cơ hội lớn cho nền kinh tế.

Hơn nữa, đại dịch cũng mang đến nhiều cơ hội cho các ý tưởng phát triển mới trong các lĩnh vực trực tiếp và gián tiếp có liên quan như làm việc từ xa, học từ xa, thương mại điện tử, và các giải pháp di động. Đành rằng Việt Nam đã có một số doanh nghiệp đang chớp thời cơ để lớn mạnh trong một vài lĩnh vực, nhưng cũng phải thừa nhận là chúng ta không phải là chủ nhân của nhiều ý tưởng mới được thương mại hóa, mà chỉ là sao chép của thiên hạ.

Lại giá như các nhà khởi nghiệp của chúng ta có một công cụ, nền tảng họp video từ xa tương tự như Zoom thì không chừng chúng ta đã có một kỳ lân nhiều tỉ đô la, mở đường cho nhiều nền tảng và ý tưởng kinh doanh mới Made in Vietnam khác.

Vậy bài học ở đây là, trước tiên, đổi mới sáng tạo, ngoài sự tự phát, năng động của khu vực tư nhân, cần phải được “hướng nghiệp”, được định hướng theo các đơn đặt hàng cụ thể của Chính phủ dựa trên nhu cầu cụ thể, sát sườn của nền kinh tế, xã hội.

Chẳng hạn, đối với ngành kinh tế thiết yếu như giao thông vận tải ở Việt Nam, với tư cách là bà đỡ cho đổi mới sáng tạo, tại sao Chính phủ không đặt hàng các giải pháp, ví dụ, sử dụng năng lượng sạch trong ngành, thay vì loay hoay từ hàng chục năm nay với chuyện làm đường sắt cao tốc rồi đường sắt tốc độ cao?

Ngay chuyện đơn giản hơn như thu phí không dừng - giải pháp đổi mới sáng tạo của hàng chục năm trước trên thế giới - mà mãi đến nay áp dụng... chưa xong! Tương tự, biến đổi khí hậu đang trực tiếp đe dọa và tác hại đến Việt Nam nên một trong những mục tiêu của chiến lược đổi mới sáng tạo quốc gia phải có ngày càng nhiều các giải pháp đổi mới sáng tạo phòng chống biến đổi khí hậu như là kết quả của sự đặt hàng của Chính phủ.

Tiếp đó, như nói ở trên, phần đề cập đến kinh nghiệm của Singapore, đơn đặt hàng của Chính phủ sẽ được thanh toán bằng các gói, các giải pháp hỗ trợ về tài chính và thể chế được thiết kế với các lĩnh vực trọng tâm, với các yêu cầu cụ thể để làm căn cứ cho việc phát hiện, tuyển chọn, xét duyệt, phê chuẩn và/hoặc tiếp tục tài trợ các giải pháp sáng tạo, đổi mới đem lại kết quả như yêu cầu.

Liên quan đến việc này, đổi mới sáng tạo ở Việt Nam cần phải có một “thinktank” có nhiệm vụ phát hiện ra các nhu cầu thực tiễn cho đổi mới sáng tạo. Ngoài việc xây dựng lực lượng chuyên gia cơ hữu, thinktank này cần có cơ chế thu hút, lắng nghe, tập hợp ý kiến đóng góp của tất cả các chủ thể có liên quan để thiết kế ra các đơn đặt hàng mang tính thực tiễn, có ý nghĩa và hiệu quả lớn cho quốc gia.

Tất cả những công việc này phải được tổng kết, đo lường cụ thể bằng những giải pháp đổi mới sáng tạo đã được sàng lọc, lựa chọn, phê chuẩn và triển khai có kết quả được phản ánh qua doanh thu và các thước đo kinh tế khác. Điều này là để tránh con đường mòn hiện nay, đó là dù đã có quá nhiều ban, ủy ban tư vấn, cố vấn các loại được thành lập ở cả cấp cao nhất, nhưng công luận cả năm hầu như chẳng nghe thấy tin tức gì về hoạt động của những ban bệ này cả. 

(1) https://www.thesaigontimes.vn/282502/thuc-day-khoi-nghiep--cach-lam-cua-singapore-.html

(2) https://vneconomy.vn/thu-tuong-khong-dau-tu-doi-moi-sang-tao-viet-nam-se-mac-ket-bay-thu-nhap-trung-binh-20210109134555778.htm


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).