https://www.thesaigontimes.vn/313149/phuc-hoi-kinh-te-thoi-covid-19-co-vaccin-chua-phai-la-xong.html
Việt Nam hiện
đang xúc tiến mua vaccine Covid-19 từ một số nước. Ở trong nước thì vaccine nội
địa cũng đang được tiêm thử trên người tình nguyện. Dường như mua/sản xuất được
vaccine đã trở thành lời giải cho bài toán phục hồi kinh tế của Việt Nam cũng
như nhiều nước trên thế giới.
Tuy nhiên, cũng
như một số nước đã tương đối thành công trong phòng chống Covid-19, chính thành
quả phòng chống dịch của Việt Nam lại có nguy cơ trở thành một lực cản để phổ
biến tiêm chủng vaccine Covid-19, làm chậm lại quá trình phục hồi và phát triển
kinh tế.
Cụ thể hơn, ngay ở
những nước đang bị Covid-19 hoành hành thì luôn có một tỷ lệ không nhỏ dân
chúng sẵn sàng “nói không” với vaccine Covid-19 vì lo sợ về tính an toàn của
vaccine, và đây đã trở thành một thách thức lớn cho việc tiêm chủng để kiểm
soát dịch bệnh. Ở Ấn Độ, nơi có hơn 10 triệu ca nhiễm Covid-19 và hơn 153 nghìn
người chết vì nó, một trong những lo ngại chính của Chính phủ là sự sợ hãi của dân
chúng về tính an toàn của vaccine sẽ ngăn cản người dân đi tiêm chúng trên diện
rộng, dù việc tiêm chủng là miễn phí (nhưng/và tự nguyện). Ở Mỹ, nơi có hàng chục
triệu ca nhiễm và hàng trăm nghìn ca tử vong vì Covid-19, nỗi sợ hãi về vaccine
của dân chúng được tiếp sức bởi tin giả và các hội anti-vaccine, cũng như các
thuyết âm mưu cũng là mối lo tương tự của Chính phủ nước này.
Với những nước kiềm
chế dịch thành công như Singapore, sự thành công này đi đôi với tâm lý e sợ
vaccine hiện hữu càng làm cho người dân ít động lực hơn để tự nguyện tiêm chủng.
Với quan niệm rằng ngay cả khi không có vaccine thì đất nước vẫn kiềm chế thành
công Covid-19, nhiều người Singapore có thái độ chờ xem, không mặn mà với chuyện
tiêm chủng để bảo vệ mạng sống của chính mình.
Điều này được thể
hiện qua kết quả của một khảo sát gần đây của Chính phủ, cho thấy tuy có 60% số
người được hỏi nói sẽ tiêm chủng, vẫn có đến hơn 30% chọn thái độ chờ xem cho đến
khi có thêm số liệu được công bố để quyết định có tiêm hay không. Khảo sát này
còn cho thấy ngay cả một số nhân viên ngành y tế và những người có nguy cơ bị
lây nhiễm cao như nhân viên đo nhiệt độ khách hàng hay nhân viên hàng không
cũng tỏ ra ngần ngại với chuyện tiêm chủng.
Tỷ lệ chấp nhận
tiêm chủng 60% như trên của Singapore là không đủ để đạt miễn dịch cộng đồng –
theo các chuyên gia thì chỉ đạt được khi có từ 70% đến 90% dân số được tiêm chủng.
Từ thực tế xảy ra
ở phạm vi quốc tế và nhất là của Singapore, Chính phủ Việt Nam cần chủ động và
có chiến lược hiệu quả đối phó với rủi ro đến từ tâm lý bài trừ vaccine
Covid-19 một khi đã được chuẩn bị để tiến hành tiêm trên diện rộng.
Việc cần làm trước
tiên là tiến hành thăm dò và khảo sát để đánh giá được tương đối chính xác trạng
thái tâm lý của dân chúng đối với việc tiêm chủng vaccine. Sẽ là điều may mắn nếu
kết quả cho thấy đại bộ phận dân chúng tin tưởng và sẵn sàng tiêm chủng. Ngược
lại, sẽ có một khối lượng công việc lớn chờ đón trước mắt.
Một trong số những
việc cần làm này là phải tuyên truyền sâu rộng cho người dân về sự cần thiết của
việc tiêm chủng vaccine Covid-19. Người dân cần được thấy việc tiêm vaccine không
chỉ bảo vệ sinh mạng bản thân và những người thân thích xung quanh, mà còn góp
phần tiêu diệt virus này thông qua miễn dịch cộng đồng khi nhiều người cùng
tiêm chủng. Sâu xa hơn, tiêm vaccine còn là để ngăn chặn sự quá tải lên hệ thống
cơ sở hạ tầng y tế còn nhiều tồn tại một khi lại có những đợt tái bùng phát dịch
trên diện rộng.
Bên cạnh việc
tuyên truyền để người dân tự nguyện chứ không bị bắt buộc tiêm chủng (để không
làm trầm trọng thêm tâm lý miễn cưỡng, lảng tránh trong dân chúng), Chính phủ cần
khuyến khích việc tiêm chủng bằng những ví dụ sống – tiêm chủng cho những người
có uy tín và người trong ngành y tế, chẳng hạn như các bác sĩ. Về chuyện này,
xin nói thêm là Thủ tướng Singapore là một trong những người đầu tiên tình nguyện
tiêm vaccine để trấn an người dân Singapore về sự an toàn và hiệu quả của
vaccine. Báo chí nước này cũng đăng ảnh của một số y tá, bác sĩ tự nguyện tiêm chủng.
Những điều này sẽ làm người dân an tâm hơn với vaccine.
Mặt khác, việc
tiêm chủng trên diện rộng phải không làm khó cho người dân như phải di chuyển
xa (nhất là những địa bàn khó khăn), vào những ngày và khung giờ ảnh hưởng đến
công việc của người dân (tốt nhất là vào cuối tuần, buổi chiều tối, hoặc để người
dân có thể lựa chọn đến tiêm tại những cơ sở y tế và thời điểm tự lựa chọn).
Ngoài việc tuyên
truyền, thuyết phục, và tạo thuận lợi, Chính phủ cũng cần phải đưa ra “củ cà rốt”
dành cho những người tự nguyện tiêm chủng. Một điều may mắn cho người dân Việt
Nam là hiện nay không có những đợt phong tỏa hay những hạn chế đi lại ở Việt
Nam như đang diễn ra ở nhiều nước. Nếu giả sử có những biện pháp này trong
tương lai, một trong những khuyến khích hữu hiệu cho tiêm vaccine Covid-19 sẽ
là sự nới lỏng các hạn chế này áp dụng cho những người có chứng nhận tiêm
vaccine. Tất nhiên, để làm được điều này thì Chính phủ cần làm rõ rằng những
người đã tiêm vaccine sẽ không có khả năng mang và làm lây truyền virus nữa.
Trên bình diện rộng
hơn, Chính phủ Việt Nam cần hợp tác quốc tế, phối hợp với Chính phủ các nước
nghiên cứu, xem xét các giải pháp nới lỏng đi lại thích hợp giữa các quốc gia đối
tác dành cho những người có chứng nhận tiêm vaccine Covid-19 để góp phần không
chỉ thúc đẩy tiêm chủng mà còn như một giải pháp hỗ trợ hữu hiệu cho nền kinh tế
bản địa.
No comments:
Post a Comment