Saturday 30 January 2021

Phục hồi kinh tế thời Covid-19: Có vaccin chưa phải là xong (Bài đăng trên TBKTSG, 28/1/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/313149/phuc-hoi-kinh-te-thoi-covid-19-co-vaccin-chua-phai-la-xong.html

Việt Nam hiện đang xúc tiến mua vaccine Covid-19 từ một số nước. Ở trong nước thì vaccine nội địa cũng đang được tiêm thử trên người tình nguyện. Dường như mua/sản xuất được vaccine đã trở thành lời giải cho bài toán phục hồi kinh tế của Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới.

Tuy nhiên, cũng như một số nước đã tương đối thành công trong phòng chống Covid-19, chính thành quả phòng chống dịch của Việt Nam lại có nguy cơ trở thành một lực cản để phổ biến tiêm chủng vaccine Covid-19, làm chậm lại quá trình phục hồi và phát triển kinh tế.

Cụ thể hơn, ngay ở những nước đang bị Covid-19 hoành hành thì luôn có một tỷ lệ không nhỏ dân chúng sẵn sàng “nói không” với vaccine Covid-19 vì lo sợ về tính an toàn của vaccine, và đây đã trở thành một thách thức lớn cho việc tiêm chủng để kiểm soát dịch bệnh. Ở Ấn Độ, nơi có hơn 10 triệu ca nhiễm Covid-19 và hơn 153 nghìn người chết vì nó, một trong những lo ngại chính của Chính phủ là sự sợ hãi của dân chúng về tính an toàn của vaccine sẽ ngăn cản người dân đi tiêm chúng trên diện rộng, dù việc tiêm chủng là miễn phí (nhưng/và tự nguyện). Ở Mỹ, nơi có hàng chục triệu ca nhiễm và hàng trăm nghìn ca tử vong vì Covid-19, nỗi sợ hãi về vaccine của dân chúng được tiếp sức bởi tin giả và các hội anti-vaccine, cũng như các thuyết âm mưu cũng là mối lo tương tự của Chính phủ nước này.

Với những nước kiềm chế dịch thành công như Singapore, sự thành công này đi đôi với tâm lý e sợ vaccine hiện hữu càng làm cho người dân ít động lực hơn để tự nguyện tiêm chủng. Với quan niệm rằng ngay cả khi không có vaccine thì đất nước vẫn kiềm chế thành công Covid-19, nhiều người Singapore có thái độ chờ xem, không mặn mà với chuyện tiêm chủng để bảo vệ mạng sống của chính mình.

Điều này được thể hiện qua kết quả của một khảo sát gần đây của Chính phủ, cho thấy tuy có 60% số người được hỏi nói sẽ tiêm chủng, vẫn có đến hơn 30% chọn thái độ chờ xem cho đến khi có thêm số liệu được công bố để quyết định có tiêm hay không. Khảo sát này còn cho thấy ngay cả một số nhân viên ngành y tế và những người có nguy cơ bị lây nhiễm cao như nhân viên đo nhiệt độ khách hàng hay nhân viên hàng không cũng tỏ ra ngần ngại với chuyện tiêm chủng.

Tỷ lệ chấp nhận tiêm chủng 60% như trên của Singapore là không đủ để đạt miễn dịch cộng đồng – theo các chuyên gia thì chỉ đạt được khi có từ 70% đến 90% dân số được tiêm chủng.

Từ thực tế xảy ra ở phạm vi quốc tế và nhất là của Singapore, Chính phủ Việt Nam cần chủ động và có chiến lược hiệu quả đối phó với rủi ro đến từ tâm lý bài trừ vaccine Covid-19 một khi đã được chuẩn bị để tiến hành tiêm trên diện rộng.

Việc cần làm trước tiên là tiến hành thăm dò và khảo sát để đánh giá được tương đối chính xác trạng thái tâm lý của dân chúng đối với việc tiêm chủng vaccine. Sẽ là điều may mắn nếu kết quả cho thấy đại bộ phận dân chúng tin tưởng và sẵn sàng tiêm chủng. Ngược lại, sẽ có một khối lượng công việc lớn chờ đón trước mắt.

Một trong số những việc cần làm này là phải tuyên truyền sâu rộng cho người dân về sự cần thiết của việc tiêm chủng vaccine Covid-19. Người dân cần được thấy việc tiêm vaccine không chỉ bảo vệ sinh mạng bản thân và những người thân thích xung quanh, mà còn góp phần tiêu diệt virus này thông qua miễn dịch cộng đồng khi nhiều người cùng tiêm chủng. Sâu xa hơn, tiêm vaccine còn là để ngăn chặn sự quá tải lên hệ thống cơ sở hạ tầng y tế còn nhiều tồn tại một khi lại có những đợt tái bùng phát dịch trên diện rộng.

Bên cạnh việc tuyên truyền để người dân tự nguyện chứ không bị bắt buộc tiêm chủng (để không làm trầm trọng thêm tâm lý miễn cưỡng, lảng tránh trong dân chúng), Chính phủ cần khuyến khích việc tiêm chủng bằng những ví dụ sống – tiêm chủng cho những người có uy tín và người trong ngành y tế, chẳng hạn như các bác sĩ. Về chuyện này, xin nói thêm là Thủ tướng Singapore là một trong những người đầu tiên tình nguyện tiêm vaccine để trấn an người dân Singapore về sự an toàn và hiệu quả của vaccine. Báo chí nước này cũng đăng ảnh của một số y tá, bác sĩ tự nguyện tiêm chủng. Những điều này sẽ làm người dân an tâm hơn với vaccine.

Mặt khác, việc tiêm chủng trên diện rộng phải không làm khó cho người dân như phải di chuyển xa (nhất là những địa bàn khó khăn), vào những ngày và khung giờ ảnh hưởng đến công việc của người dân (tốt nhất là vào cuối tuần, buổi chiều tối, hoặc để người dân có thể lựa chọn đến tiêm tại những cơ sở y tế và thời điểm tự lựa chọn).

Ngoài việc tuyên truyền, thuyết phục, và tạo thuận lợi, Chính phủ cũng cần phải đưa ra “củ cà rốt” dành cho những người tự nguyện tiêm chủng. Một điều may mắn cho người dân Việt Nam là hiện nay không có những đợt phong tỏa hay những hạn chế đi lại ở Việt Nam như đang diễn ra ở nhiều nước. Nếu giả sử có những biện pháp này trong tương lai, một trong những khuyến khích hữu hiệu cho tiêm vaccine Covid-19 sẽ là sự nới lỏng các hạn chế này áp dụng cho những người có chứng nhận tiêm vaccine. Tất nhiên, để làm được điều này thì Chính phủ cần làm rõ rằng những người đã tiêm vaccine sẽ không có khả năng mang và làm lây truyền virus nữa.

Trên bình diện rộng hơn, Chính phủ Việt Nam cần hợp tác quốc tế, phối hợp với Chính phủ các nước nghiên cứu, xem xét các giải pháp nới lỏng đi lại thích hợp giữa các quốc gia đối tác dành cho những người có chứng nhận tiêm vaccine Covid-19 để góp phần không chỉ thúc đẩy tiêm chủng mà còn như một giải pháp hỗ trợ hữu hiệu cho nền kinh tế bản địa.


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).